Thứ Năm, 30 Tháng Mười Một 2023
Trang chủ Blog Trang 92

“Đạo” và “Đức” trong võ thuật truyền thống Trung Hoa

0

Nội hàm của võ thuật truyền thống Trung Hoa

Dân tộc Trung Hoa được mệnh danh là dân tộc có nền văn hóa Thần truyền 5000 năm lịch sử. Đối với điều này, Lão Tử có cái nhìn tổng quát gói gọn trong hai chữ “Đạo” và “Đức”. Đây cũng là nét tinh túy của văn hóa truyền thống Trung Hoa.

“Đạo” được hiểu chính là quy luật vận hành của vũ trụ, còn “Đức” là dựa theo quy luật vận hành của vũ trụ, trời đất mà làm việc. Lão Tử viết: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.” Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. Lão Tử cũng viết: “Đạo sinh chi, đức súc chi”, ý nói Đạo sinh ra vạn vật, Đức dung dưỡng vạn vật. Vạn vật do Đạo mà sinh ra và dựa vào Đức mà tồn tại. Vạn vật có Đức tất sẽ sống, mất Đức tất sẽ chết. Do đó, vạn vật đều phải lấy “tôn Đạo trọng Đức” làm căn bản để sinh tồn.

Võ thuật truyền thống Trung Hoa là một trong những nội hàm của văn minh Thần truyền, do đó nó bao gồm cả “Đạo” và “Đức” trong đó. Cái gọi là “truyền”, ở tầng thứ cao mà nói chính là Thần truyền cấp cho con người, cũng chính là nói: “Thần truyền nhân thừa”. Nói cách khác, là Thượng Thiên truyền xuống, Đạo truyền xuống, Thần truyền xuống và con người chúng ta thừa hưởng. Còn “thống” tức là một quy phạm và nguyên tắc thống nhất. Tuân theo những quy phạm và nguyên tắc thống nhất này mà thực hành thì được gọi là thống, có truyền có thống thì được gọi là “truyền thống”.

Từ Võ (“武”) được tạo thành bởi hai bộ phận là “戈 ” (cây thương, giáo, mác) và “止” (kết thúc, ngăn lại), nói cách khác “võ” không phải là dùng để đánh nhau kịch liệt mà là ngăn lại việc đánh nhau, ngăn chặn lại bạo lực. “Thuật” mang ý nghĩa chỉ phương pháp, nghệ thuật. Cho nên, võ thuật nghĩa là nghệ thuật ngăn chặn bạo lực, ngăn chặn việc đánh nhau.

Nói một cách khái quát nhất, Võ thuật truyền thống Trung Hoa là nghệ thuật ngăn chặn (chặn đứng lại) việc đấu tranh, đánh nhau do Thần ban tặng cho dân tộc Trung Hoa.

Võ đức – tinh hoa võ thuật truyền thống Trung Hoa

võ thuật Trung Hoa
(Hình minh họa: Qua recordchina.co.jp)

Tinh hoa của văn minh Trung Hoa là đạo đức, võ thuật truyền thống Trung Hoa là một bộ phận của văn minh Thần truyền Trung Hoa. Do vậy nét tinh túy trong võ thuật truyền thống Trung Hoa cũng hàm chứa đạo đức.

Một trong những tinh hoa của võ thuật truyền thống Trung Hoa chính là tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất”, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia và tư tưởng “Chí thiện vi bản”, “từ bi chúng sinh” của Phật gia. “Thiên nhân hợp nhất” ý chỉ việc tuân theo quy luật Thiên đạo quy phạm Thần truyền mà làm. Bởi vì thuận theo Thiên ý thì sẽ được Thần trợ giúp và tự nhiên đạt được hiệu quả. “Vô vi nhi trị” ý chỉ không vì bản thân, vô ngã mà làm việc, thuận theo Thiên ý, đi theo hướng tự nhiên. Còn “Chí thiện vi bản” ý chỉ người đủ Phật tính, lấy thiện làm gốc, một lòng hướng thiện, đạo đức cao thượng, được Thần phù hộ. “Từ bi chúng sinh” ý chỉ xả bỏ yêu mà đạt được từ bi, thương xót chúng sinh, độ người là độ mình, độ mình là độ người.

Xét một cách đơn giản, Võ thuật truyền thống Trung Hoa hàm chứa những nét tinh túy đó, vậy nên võ thuật Trung Hoa không phải có ý chỉ nghệ thuật đánh nhau mà là nghệ thuật ngăn chặn việc tranh đấu lẫn nhau. Nhưng xét rộng hơn thì võ thuật Trung Hoa không phải chỉ là một loại nghệ thuật mà nó chính là con đường tu luyện, là một loại nền tảng của tu luyện.

“Võ đức” chính là đạo đức của võ thuật. Tôn đạo trọng đức, tin tưởng vào nhân quả, thông tỏ thiện ác, ngừng ác tuyên dương thiện, kính Trời khiêm mình, thuận Trời thuận người, hướng đạo tu đức chính là võ đức. Cổ nhân nói: “Võ dĩ đức chương, đức dĩ vũ hiển”, chính là nói rằng đức là cái gốc của võ, võ là cái lá của đức.

Cái đức của võ còn thể hiện ở việc gặp thiện mà không ức hiếp, gặp ác mà không sợ. Thời cổ đại, Hoàng Đế lấy chính để ngăn chặn ác, sáng tạo ra lịch sử võ đức. Chu Vũ Vương lấy có đạo để phạt vô đạo. Đường Thái Tông cho xây dựng Lăng Yên Các để biểu dương võ đức và lòng trung dũng của các công thần. Trương Tam Phong sáng lập ra Thái Cực quyền, “chí nhu nhược thủy” (thiện nhất như nước), lấy nhu thắng cương để bình thiên hạ. Lão Tử viết: “Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ác, cố kỉ vu đạo” (Thiện cao nhất giống như nước, nước đem lại lợi ích cho vạn vật mà không tranh giành với vạn vật, có thể ở những chỗ mà mọi người không thích nhất, cho nên nước là giống với Đạo), Thái Cực quyền không chỉ lấy sự nhu hòa, thong dong để làm lợi cho sức khỏe của con người, dưỡng sinh kéo dài tuổi thọ mà càng là “lấy nhu khắc cương”, ngăn chặn bạo lực, không đả thương người. Đây được coi là điển hình của võ đức.

Võ đức còn thể hiện ở tu tâm dưỡng tính, có tâm cầu đạo, không màng danh lợi, thiện tâm, ý chí kiên định, có nếm trải qua trăm khổ ải cũng cam lòng, trải qua muôn vàn khó khăn cũng không nhụt chí, đối mặt với cường quyền và kẻ ác mà tâm không sợ, kỹ thuật không hời hợt. Một khi tâm không sợ thì “thần ngưng khí định”, kỹ thuật không hời hợt thì có thể ngăn chặn được bạo lực.

Võ đức lấy mỹ đức truyền thống gồm “trung, thứ, nhân, nghĩa, hiếu, liêm” để hành động. Lão Tử nói: “Thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ, phu lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ.” (Mất đạo thì đến đức. Mất đức thì đến nhân. Mất nhân thì đến nghĩa. Mất nghĩa thì đến lễ. Mà lễ là trung tín đã đi đến chỗ mỏng manh, và là đầu mối loạn lạc), cho nên trong võ thuật truyền thống, đạo đức là đứng đầu rồi mới đến kỹ thuật giỏi. Điều này cũng là phù hợp với nền văn hóa truyền thống “tôn đức trọng đạo” của người xưa.

An Hòa (t/h)

Nguồn: Trithucvn.net

Chuyện tu luyện của các thi sĩ cổ đại: Bạch Cư Dị

0

 

Tác giả: Mai Tùng Hạc

Bạch Cư Dị, tự là Lạc Thiên, là một đại thi sĩ sống trong giai đoạn ngay sau thời kỳ cực thịnh của triều đại nhà Đường. Ông sinh năm 772 và mất năm 846 sau Công Nguyên. Thơ của ông sử dụng ngôn ngữ thông tục, và những người ít học thời bấy giờ dễ dàng hiểu được thơ của ông với những chủ đề rõ ràng. Áng thơ của ông trôi chảy mạch lạc. Phong cách thơ vô cùng độc đáo của ông đã trở thành một thể loại văn học thường được gọi là “nguyên bạch thể”, hay còn gọi là thể thơ giản dị tới mức căn bản.

Bạch Cư Dị là người ủng hộ trường phái tân nhạc và các bài hát dân ca mang phong cách triều Hán. Ông cũng phổ biến khuôn mẫu dành cho sáng tác thơ, “Dữ nguyên cửu thư” hay “Chín nguyên tắc sáng tác thơ”. Nó giành được sự tôn trọng cao và được coi là kiệt tác về phê bình rất trọng yếu của nền văn học Trung Hoa. Trong số các đệ nhất tác của ông  gồm có “Trường Hận Ca”, một bài thơ dài miêu tả sự thăng trầm của mỹ nhân Dương Quý Phi và “Tỳ Bà Hành” mô tả đàn tỳ bà Trung Hoa. Suốt các thời kỳ, những nhà phê bình thơ luôn tán dương “Trường Hận Ca” là một bài thơ “thiên cổ tuyệt xướng”.

Với nhiều đại thi nhân thuộc triều đại nhà Đường, như Hàn Dũ và Đỗ Phủ, thơ của họ không được công nhận cho đến khi họ qua đời. Nhưng Bạch Cư Dị thì khác, ông đã có danh tiếng hiển hách khi còn đang tại thế. Ông và các tác phẩm của ông được sùng bái khắp cả trong lẫn ngoài Trung Quốc. Sau khi qua đời, các tác phẩm của ông tiếp tục có những ảnh hưởng lịch sử đáng kể đến nền thi ca Trung Hoa. Trong thời kỳ đỉnh cao của ông, tức 20 năm cuối đời, thơ của Bạch Cư Dị được nhìn thấy trên tường của các tự miếu, đạo quán và bưu đình. Những người sùng bái thơ Bạch Cư Dị bao gồm các vương công đại thần, từ giới quý tộc thượng lưu cho đến những nhà nông già và cả đứa trẻ chăn gia súc. Nam nữ không phân biệt già trẻ đều bị thu hút bởi thơ của ông. Toàn thiên hạ thường chép thơ ông để đổi lấy trà hoặc rượu. Các kỹ nữ hát hoặc ngâm “Tỳ Bà Hành” sẽ đòi giá cao hơn vì có sự khác biệt về kỹ năng thi ca của họ so với những người khác.

Cả đời Bạch Cư Dị sáng tác nhiều thơ trào phúng hơn bất kỳ thi sĩ nào trong lịch sử Trung Hoa. Đây là sự biểu đạt lòng quan tâm chân thực đến người nghèo khổ và là sự biểu lộ lòng thiện từ với những người kém may mắn. Những bài thơ trào phúng nổi tiếng nhất của ông là “Mại Thán Ông”, “Quan Ngải Mạch”, và “Liễu Lăng”. Đến nay, mỗi khi đọc những bài thơ này, người ta có thể cảm nhận được lòng thiện tâm bao dung lớn lao của Bạch Cư Dị. Khía cạnh đáng ca ngợi nhất trong lối hành văn của Bạch Cư Dị là mối quan tâm sâu sắc và cảm thông đối với người nghèo, trong khi ông thường nhìn vào bản thân và phê phán cuộc sống xa hoa bậc nhất của mình. Khi thấy một người đàn bà đang bế đứa bé nhặt từng hạt từng hạt lúa mì thừa trên cánh đồng sau buổi thu hoạch, Bạch Cư Dị tự xỉ vả mình vì đã nhận 300 giạ lúa làm lương bổng. Đó là một lượng lớn lúa gạo thời bấy giờ mà ông không tự mình kiếm được khi làm bánh bột gạo. Việc này được ghi lại trong “Quan Ngải Mạch”.

Lòng thiện từ dần dần dẫn dắt ông đến với tu luyện trong Phật giáo. Những năm cuối đời, Bạch Cư Dị tự xưng là “Hương sơn cư sĩ” và trở thành người tu luyện mà không vào chùa. Việc tu luyện cho phép ông biết được nguyên lý rằng mọi thứ trên thế gian đều là nhân quả. Vì lẽ đó, Bạch Cư Dị không quá quan tâm hoặc bị xâm chiếm bởi sự u sầu như người thường khi ông đối mặt với khổ nạn. Ông không phiền não khi bị giáng chức trong lúc tại vị và được chuyển đến Giang Châu làm một chức sắc nhỏ. Ông dần dần xa rời danh lợi và cảnh báo thế nhân đừng quá truy cầu; nếu không sẽ chịu mọi tai họa do chính mình chiêu mời mà đến. Bạch Cư Dị chân thành tha thiết nói với thế nhân rằng khổ nạn là kết quả từ lời nói và hành động của mình mà đến. [1] Bởi vì ông có thể xả bỏ danh lợi nên ông đã tu luyện nhanh chóng và sớm đạt được công năng túc mệnh thông.

Trong thời kỳ đỉnh cao của triều đại nhà Đường, nhiều mệnh quan triều đình và các văn nhân đều là người tu Phật, và nhiều người trong số họ đã nhớ lại tiền kiếp. Bạch Cư Dị là một trong số đó. Ông mô tả điều ấy trong một bài thơ: “Kiếp trước ta là Phòng Thái Úy một hòa thượng tu Phật, là Vương Hữu Thừa, hay là đại thi nhân Vương Duy vốn là một họa sĩ. Trong lúc đả tọa nhập định, ta dùng công năng túc mệnh thông để xem tiền kiếp của mình, ta phát hiện rằng nhiều kiếp trước đã liên tục có duyên tiền định với thi ca.” [2] Tại đây Bạch Cư Dị cho biết tài năng thơ của ông là kết quả của sự nỗ lực liên tục và tích lũy qua nhiều kiếp sống. Tuyên bố của Bạch Cư Dị cung cấp một giải thích xác đáng về những điều như “thiên tài” và bằng chứng về luân hồi mà khoa học phương Tây đang nghiên cứu. Một trong những nghiên cứu về luân hồi từng báo cáo một đứa bé mới biết đi có thể lái thuyền mà chưa từng học trước đó, một dấu hiệu đặc biệt nhất về “thiên phú”. Sau đó, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng trong tiền kiếp đứa trẻ đã có 10 năm kinh nghiệm làm thuyền trưởng.

Trong quá trình tu luyện, Bạch Cư Dị đã xuất được công năng túc mệnh thông cường mạnh. Ngoài ra, ông có vẻ thông hiểu Phật Pháp hơn mọi người. Trong “Độc Thiền Kinh,” Bạch Cư Dị viết:

“Tu tri chư tướng giai phi tướng,
Nhược trụ vô dư khước hữu dư.
Ngôn hạ vong ngôn nhất thời liễu,
Mộng trung thuyết mộng lưỡng trùng hư.
Không hoa khởi đắc kiêm cầu quả,
Dương diễm như hà cánh mịch ngư.
Nhiếp động thị thiện thiện thị động,
Bất thiện bất động tức như như.”

Diễn nghĩa:

“Phải nghĩ rằng mọi thứ trên đời đều là ảo tưởng.
[Thí dụ], ta thiếu thốn này nọ nhưng thật sự lại dư thừa.
Một lời nói đã qua,
Cũng chẳng khác gì giấc mộng trong giấc mộng, đều là hư ảo.
Cầu hoa không hạt ra quả,
Cũng như mò cá buổi trưa vậy.
Cái ‘động’ là cấp cao trong thiền định,
Thiền định trong tĩnh lặng mới là chìa khóa thực sự.”

Khi mỗi người đang có những tri kiến khác nhau về thơ thiền, tôi sẽ không bình luận gì về bài thơ mà để cho quý độc giả tự mình nghiền ngẫm.

Tham khảo:

[1] Bạch Cư Dị, “Cảm Hứng Nhị Thủ:”

“Cát hung họa phúc hữu lai do,
Đãn yếu thâm tri bất yếu ưu […]
Danh vi công khí vô đa thủ,
Lợi thị thân tai hiệp thiểu cầu […]
Ngã hữu nhất ngôn quân kí thủ,
Thế gian tự thủ khổ nhân đa.”

Diễn nghĩa:

“Cát hung họa phúc đều có nguyên do,
Nhưng quan trọng nhất là đừng ưu sầu về nó […]
Danh là địa vị xã hội không nên chạy theo,
Lợi là sự cảnh tỉnh về tai ương, vì vậy không nên cầu […]
Ta có một lời khuyên này,
Quá nhiều người trên thế gian chịu khổ vì tự mình gây ra.”

[2] Bạch Cư Dị, “Tự Giải”:

“Phòng truyền vãng thế vi thiện khách,
Vương đạo tiền sinh ứng họa sư.
Ngã diệc định trung quan túc mệnh,
Đa sinh trái phụ thị ca thi…”

Diễn nghĩa:

“Kiếp trước là một người tu Phật họ Phòng,
Và từng là họa sĩ họ Vương trứ danh.
Trong thiền định thông qua túc mệnh thông,
Ta thấy được kiếp trước mình là thi nhân.”

Toàn bộ các bài thơ đã dẫn được lấy từ “Bạch Hương San Tập”, “Quốc Học Cơ Bản Tùng Thư (400 loại)” do Vương Vân Ngũ làm chủ biên và nhà in Thương Vụ Đài Loan ấn hành, bản đầu tiên được phát hành vào tháng 09/1968. “Cảm Hứng Nhị Thủ” và “Độc Thiền Kinh” gồm 65 quyển, “Tự Giải” gồm 68 quyển.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/25/19754.html
http://www.pureinsight.org/node/1381

Nguồn: [Chanhkien.org]

Đạo gia tu luyện cố sự: Lưu Xứ Huyền bị Vương Mẫu quở trách vì chưa bỏ hết sắc tâm

0

Tác giả: Mạc Cầu

Cao nhân Vương Trùng Dương của Đạo gia có một vị đệ tử tên là Lưu Xứ Huyền. Lưu Xứ Huyền, tự là Thông Diệu, hiệu là Trường Sinh, là người huyện Dịch, tỉnh Sơn Đông, sinh vào năm Thiệu Hưng thứ 22 thời Tống Cao Tông của Nam Tống (tức năm 1152 SCN). Năm Càn Đạo thứ 4 nhà Nam Tống, Tống Hiếu Tông bái Vương Trùng Dương Chân nhân làm sư phụ để được truyền thụ Đạo Pháp.

Sau này Lưu Xứ Huyền vân du tới Lạc Dương, ở trong một ngôi miếu thờ Thổ Địa tại nội thành. Đương thời Lưu Xứ Huyền vì để tu khẩu nên suốt 3 năm không nói câu nào, khi có người hỏi ông chỉ dùng tay ra dấu để ứng phó, người ta cho gì thì ăn nấy, không có gì ăn thì cũng không ăn xin. Thỉnh thoảng có người thấy ông tu khẩu không nói năng gì, bèn bỡn cợt nhục mạ ông, sau khi nghe xong ông vẫn ôn hòa nhã nhặn, tuyệt không hề mảy may phẫn nộ.

Cùng với sự khổ tu, công lực của ông càng ngày càng cao thâm. Một ngày nọ khi đang ngủ, nguyên thần ông ly thể lên Thiên đình, bay đến Cung Diêu Trì bái kiến Vương Mẫu. Lúc ấy ông thấy sau lưng Vương Mẫu có khoảng mười tiên nữ dung nhan mỹ diệu, thế gian ít gặp, thế là bèn sinh tâm ái mộ, không kìm nổi mới liếc trộm một cái. Vương Mẫu hỏi ông: “Ngươi liếc trộm họ, định muốn gì đây?”

Lưu Xứ Huyền thấy Vương Mẫu hỏi, tự biết mình thất lễ, sợ quá vội quỳ sụp xuống tạ tội: “Thần đột nhiên thấy họ nhảy múa điệu nghê thường, dải áo phất phơ, vô ý nhìn ngắm tiên nữ, kỳ thực không có ý gì khác. Nương nương từ thiện, kính mong nương nương khoan dung tha thứ.” Vương Mẫu nghe xong trách ông: “Sắc tướng chưa hết, cho dù kim đan thành tựu cũng không thể siêu phàm nhập thánh. Lại phải hạ xuống phàm gian, khổ tu khổ luyện.”

Tiên quan phụng mệnh Vương Mẫu dắt nguyên thần của Lưu Xứ Huyền về Nam Thiên Môn. Ông đang định cưỡi mây bay xuống, đột nhiên bị Tiên quan đẩy cho một cái, ngã té trở xuống, sau đó nhục nhân Lưu Xứ Huyền choàng tỉnh. Kể từ đó, Lưu Xứ Huyền quả nhiên tu luyện gian khổ một phen để vứt bỏ tâm sắc dục, cuối cùng công thành viên mãn, trở thành một trong “Toàn Chân thất tử”.

Đọc xong mẩu cố sự trên, bản thân tôi nghĩ thế này: Bởi vì lúc nguyên thần ly thể, Lưu Xứ Huyền nhìn trộm tiên nữ, nên mới bị Vương Mẫu khiển trách, rồi bị Tiên quan đẩy xuống nhân gian, từ đó thấy rằng người tu luyện không chỉ tuyệt đối không được quan hệ bất chính, mà còn cần triệt để loại bỏ hết thảy tâm sắc dục thì cuối cùng mới có thể tu thành.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/7/18/60607.html

Nguồn: [Chanhkien.org]

Bầu trời của lịch sử: Thiên quốc

0

 

Tác giả: Thiện Dũng

Thiên quốc của Thần là thế giới vô cùng phồn vinh, thần thánh, trang nghiêm. Dùng ngôn ngữ của bất kỳ một ai cũng không thể biểu đạt được một cách chính xác sự tốt đẹp trên thế giới của Thần.

Thế giới thiên quốc có quy định nghiêm ngặt, chúng sinh căn cứ theo cảnh giới, quả vị của chính mình mà phải gánh vác những trách nhiệm tương ứng trên thế giới thiên quốc, luôn tận hết sức để làm tốt vai trò của bản thân, vì để duy hộ hình thức biểu hiện cụ thể của Pháp tại cảnh giới đó, vì sự hạnh phúc của chúng sinh thiên quốc, mà cống hiến mọi thứ của mình một cách không tư lợi. Trong đại khung vũ trụ có vô số thế giới thiên quốc. Bởi vì cảnh giới khác biệt, lạp tử vi quan cấu thành không giống nhau, nên hình thức diễn hóa tồn tại của vật chất, phương thức tồn tại của sinh mệnh trong các thế giới thiên quốc tại các tầng khác nhau cũng có sự chệnh lệch rất lớn.

Trong một lần trao đổi thể hội tu luyện với một vị đồng tu, đồng tu đó hỏi tôi rằng: Thiên quốc của đệ tử Đại Pháp tu luyện thời Chính Pháp là như thế nào? Tôi nói: Thực chất thì chân tướng vốn có [của nó], cảnh giới hiện tại là không nhìn thấy được, tuy nhiên Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi có thể là có những điều triển hiện. Thế là tôi tịnh tâm lại, dùng công năng để nhìn về không gian vi quan đối ứng với cơ thể được cấu thành từ lạp tử vi quan ở không gian khác của đồng tu, vượt xuyên qua tầng tầng các thời không, rồi nhìn thấy được thế giới thiên quốc của đồng tu.

Đó là một thế giới hoàn toàn được cấu thành bởi bạch kim. Tại tiên cảnh thiên quốc, mặt đất trải đầy các sắc màu ngọc bích, những cánh đồng cỏ ngọc bích, mênh mông vô tận, tựa như một khối bảo thạch màu xanh, phát sáng lấp lánh, phía trên nở đầy các loại hoa tươi đủ màu sắc. Không khí hết sức trong lành. Xa xa là các ngọn núi trùng điệp, những khu rừng với rất nhiều cây cối xanh tươi. Dòng sông tựa như một dây đai bằng ngọc, khảm trên mặt đất bao la. Ở giữa rừng, các chú sóc đang rượt đuổi nhau tạo nên sự huyên náo, [chúng] nhảy từ cành cây này sang cành cây khác. Trên bầu trời, một bầy những chú chim lông dài mà ở thế gian không có đang bay lướt qua, chúng phát ra những tiếng kêu êm tai, màu sắc là màu vàng kim, nhưng thân thể lại là trong suốt. Thông qua vật thể từ bên này đều có thể nhìn thấy được vật thể ở phía bên kia.

Xa xa ở giữa bầu trời truyền đến từng đợt những giọng hát du dương, thuận theo tiếng hát ấy mà nhìn, là mấy ngàn chúng Thần thiên quốc đang ca hát ở giữa một kiến trúc to lớn tương tự như miếu thần của Hy Lạp. Thần điện này là do những tinh thể bạch ngọc xếp đặt nên, cửa chính có 7 cột trụ bạch ngọc to lớn từ nóc nhà đến phía dưới mặt đất. Trên cột trụ có khắc các hoa văn tinh tế. Hình tượng của chúng Thần là cách ăn mặc của La Mã cổ đại. Tóc là màu nâu nhạt. Thân thể quấn một miếng vải trắng tựa như tơ lụa, rất có quy cách, phát ra ánh sáng rực rỡ như pha lê. Hình tướng đều là khoảng 20 tuổi, làn da cực kỳ trắng mịn, khuôn mặt cũng hết sức xinh đẹp. Tóc của các vị Thần mang hình tượng nam tính là tóc ngắn hơi quăn, còn tóc của các vị Thần mang hình tương nữ tính đều là tóc dài, búi lên. Giai điệu của giọng hát rất uyển chuyển và du dương.

……

Vương [chủ] của tôi, Ngài hãy mau trở về.
Ngài còn nhớ chăng những đóa hoa tươi nở rộ nơi thế giới của chúng ta?
Ngài còn nhớ chăng nụ cười của chúng tôi?
Chúng tôi nhớ Ngài lắm.
Vương [chủ] của chúng tôi, Ngài hãy mau trở về.
Ngài còn nhớ chăng lời Ngài đã nói trước lúc chia tay;
Ngài còn nhớ chăng con đường Ngài đã đi qua.
Vì sự hạnh phúc của thiên quốc,
Ngài đã chịu tận nỗi khổ ở trên đời, chịu tận nỗi khổ ở trên đời.
Vì chân lý của vũ trụ,
Ngài đã không màng sống chết, không màng sống chết.
Vương [chủ] vĩ đại ơi,
Ngài có biết rằng chúng tôi ngày đêm mong nhớ Ngài.

……

Chúng Thần của thiên quốc gọi tên ca khúc này là “Vương giả quy lai”.

Hoàng cung to lớn và hoa lệ trải dài cả mấy chục dặm, bên trong có các hồ nước, có đồi xanh, có những dòng suối phun trào… Phong cách tương tự như phong cách kiến trúc của La Mã cổ, cực kỳ hùng vĩ và tráng lệ.

Xung quanh hoàng cung có phát ra các tia bức xạ, chúng sinh thiên quốc sống tại các khu đất được bố cục cân đối, ngôi nhà mà mỗi chúng sinh cư ngụ giống như là biệt thự hào hoa vậy, cũng là dùng vật liệu bạch ngọc để xây dựng nên. Chiếc bàn, cái giường cùng mọi loại vật dụng sinh hoạt hằng ngày trong căn nhà, đều nhất loạt có đủ cả. Lúc nào không dùng đến, thì có thể động niệm để nó biến đi mất, đến khi cần dùng lại, tùy theo tâm động niệm, sẽ tự động hiện ra để đáp ứng nhu cầu. Bốn phía xung quanh bên trong và bên ngoài biệt thự đều là cỏ xanh, hoa tươi. Ở phần giữa hoàng thành bên cạnh hoàng cung có một quảng trường to lớn. Bốn phía có các loại cây phong diệp, cây tùng, cây bạch dương giống như của xã hội con người vậy… Các chủng loại hoa tươi trên thiên quốc có khoảng mấy ngàn loại, cánh của những đóa hoa là trong suốt, mỏng như cánh ong, hương thơm không bao giờ dứt, đung đưa theo gió, hết sức mỹ lệ. Trên những cánh đồng xanh, là những chú thỏ nhỏ, những con linh dương, cáo đỏ, các chú sư tử vâng lời cùng các chủng loại dã thú lương thiện. Trong đó còn có một loại sinh mệnh, tương tự như con ngựa của nhân loại chúng ta, toàn thân trên dưới là lông màu trắng, đỉnh đầu có một cái sừng, cũng đang tự do chạy nhảy ở trong rừng.

Những vị Thần có quả vị trên thế giới thiên quốc muốn gì thì giơ tay là có ngay, muốn gì được nấy. Hoa sen dưới chân họ là một thứ tượng trưng cho uy đức của quả vị. Bách tính, chúng sinh trên thiên quốc không có quả vị, do đó năng lực là có hạn, dưới chân không có hoa sen, tuy nhiên khi đi lại trên thiên quốc có thể chân không chạm đất.

Thế giới thiên quốc cũng có rất nhiều những công trình công cộng, phòng trưng bày tranh, có nơi dành cho các vị Thần cùng nhau ca hát. Còn có một nơi mà dùng ngôn ngữ của con người gọi là thực điện. Trong đó có rất nhiều đồ ăn uống, bánh ngọt trái cây, mùi vị tươi ngon, chúng sinh thiên quốc có thể tùy ý mà lấy. Ở giữa cũng có món thịt giống như của con người thế gian, tuy nhiên nguyên liệu là làm từ bột mì. Chúng Thần trên thiên quốc uống các loại thức uống có màu sắc giống như là của nước ép trái cây, mùi vị giống như là vị ngọt của mật ong vậy.

Dân chúng trên thiên quốc căn cứ theo sở thích của chính mình mà lựa chọn để làm một ngành nghề có thể phục vụ, giúp đỡ được cho người khác. Toàn tâm toàn ý, không tư lợi để phục vụ cho dân chúng trên thiên quốc của họ.

Thế giới thiên quốc có phân chia ban ngày, ban đêm, vào ban đêm chúng Thần sẽ lấy một loại quặng tự nhiên để vào bên trong các chụp đèn. Vật chất quặng không giống nhau, sẽ phát ra ánh sáng có màu sắc không giống nhau. Thế giới thiên quốc cũng có phân chia bốn mùa, đối với chúng Thần trên thiên quốc mà nói là không có sự khác biệt về cái nóng và cái lạnh.

Lúc này chúng Thần của thế giới thiên quốc bắt đầu hướng về tụ tập trên quảng trường trung tâm hoàng thành, tầng tầng các bầu trời đều phân bố đầy các chúng sinh của thiên quốc, càng tụ tập càng nhiều.

Nghi lễ trọng đại đã được chuẩn bị xong cả. Các chúng sinh của vị Vương [chủ] được Đại Pháp cứu độ, ăn mặc lộng lẫy, hòa cùng những thứ trang sức hiếm có, mỹ lệ nhất. Họ đang âm thầm chờ đợi vị Vương [chủ] của họ trở về. Bắt đầu từ giây phút các đệ tử Chính Pháp tu luyện viên mãn trong thời Chính Pháp trở về đến thiên quốc, thì thiên thể vũ trụ của họ sẽ lật sang một trang lịch sử hoàn toàn mới. Điều chờ đón họ trở về là những đóa hoa tươi, là những lời hân hoan, và cả những giọt nước mắt của chúng sinh, nhưng những giọt nước mắt này là do niềm vui sướng mà rơi lệ. Đó sẽ là một ngày khắp chốn cùng mừng vui.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/60181

Nguồn: [Chanhkien.org]

Bầu trời lịch sử: Vương triều trên thiên quốc

0

Tác giả: Thiện Dũng 

Phật Pháp đối với người tu luyện trong các tầng thứ khác nhau có các pháp tương ứng triển hiện trong các tầng thứ khác nhau. Khi tu luyện trong các trạng thái và tầng thứ khác nhau, hình thức diễn hóa của vật chất và sự tồn tại của sinh mệnh trong các tầng thứ khác nhau mà Pháp triển hiện cho tôi vô cùng phong phú, tráng lệ và mỹ hảo, nhưng đó không phải là chân tướng căn bản của vũ trụ. Chỉ có kiên định chính niệm đối với chân lý vũ trụ nơi thế gian, chỉ khi ở cùng Sư tôn vĩ đại trong thời kỳ Chính pháp, trợ Sư chính Pháp, đây mới là sự việc vĩ đại nhất và có ý nghĩa nhất không có bất kỳ sự việc nào sánh được.

Trong một lần nhập định, Pháp đã triển hiện cho tôi thế giới thiên quốc trong một tầng rất thâm sâu ở không gian khác đối ứng với thân thể của tôi. Đó là một thế giới rộng lớn vô hạn được tạo nên bởi các loại đá quý (như thủy tinh, lưu ly, mã não…) và vàng. Tất cả mọi thứ trong thế giới thiên quốc đều lấp lánh ánh sáng, rực rỡ ánh vàng kim. Tất cả các sinh mệnh và vật chất trong thế giới đó đều có màu sắc vô cùng tươi sáng, mỹ diệu. Không khí nơi đây cực kỳ thuần tịnh, mây mù mờ mịt, biển mây bồng bềnh, các đám mây cuồn cuộn cao xa, những rặng núi mờ ảo, nhấp nhô, bầu trời xanh biếc, sâu thẳm.

Ở giữa những rặng núi trải dài, tôi kinh ngạc phát hiện có rất nhiều ngọn núi to lớn lơ lửng trong không trung, có ngọn núi bay cách mặt đất hàng trăm mét, đỉnh núi chìm trong mây mù, trên núi có nhiều loại cây cối, thực vật, kỳ hoa dị thảo và các loại động vật quý hiếm. Bỗng nhiên xuất hiện một con mãnh hổ chạy xuyên qua giữa rừng, nhảy một phát từ độ cao mấy trăm mét, từ từ hạ xuống mặt đất, rồi chạy vào trong rừng rậm. Bên dòng suối trong rừng, một con kỳ lân lông màu lam đang uống nước, toàn thân kỳ lân có vảy bao phủ, trên đầu có hai chiếc sừng, hai con mắt màu đỏ, thần thái an hòa, thư thái. Bên cạnh nó có vài con kỳ lân nhỏ đang chơi đùa đuổi bắt, tiếng kêu của chúng giống như tiếng hươu, nai. Trên ngọn cây cao đến mức tầm nhìn có thể thấy được, có một con phượng hoàng như trong truyền thuyết, toàn thân màu vàng kim giống như màu ngọn lửa đang bốc cháy, trông vô cùng rực rỡ. Con phượng hoàng vẫy vẫy đôi cánh và cái đuôi dài của nó, dang rộng đôi cánh lớn, hướng mỏ lên trời, cất tiếng hót trong trẻo, thánh thót, vang vọng cả núi rừng.

Khắp mặt đất nơi thiên quốc tràn đầy các loài hoa tươi đua nhau khoe sắc, muôn hình vạn trạng, như một dải hoa gấm trải đầy trên mặt đất xanh tươi. Nơi đây quả thực là một biển hoa! Trong không khí tràn đầy mùi thơm của các loài hoa, mùi hương bao phủ lấy con người. Quan sát kỹ trên mỗi cánh hoa trong suốt đều có một chữ nhỏ, giống như loại chữ triện trong các bài thơ cổ, những chữ này hòa cùng với các đường gân trên cánh hoa, vô cùng sống động, vừa thần kỳ, vừa mỹ diệu. Nội dung của các chữ này có lúc như là một bài kệ (lời hát trong kinh Phật), đó là triển hiện trong không gian này của các Pháp lý ở các tầng thứ khác nhau mà người tu luyện chứng ngộ được qua quá trình ma luyện kiên định và cực khổ ở thế gian.

Nơi ở của chúng Thần trong thiên quốc là những tòa tháp được xây dựng hoàn toàn bằng vàng, y phục của thiên nhân và phong cách kiến trúc ở thiên quốc giống với phong cách triều Đường vào thời kỳ thịnh thế. Lầu các nguy nga, tầng tầng trùng điệp, phía sau các ngôi nhà chính có hoa viên, bên trong có đình đài, ao hồ, rừng cây, vườn trúc. Trong nhà có bàn, giường, đàn, kiếm, bếp lò, gấm, rương, sa, trướng… Đồ dùng ăn uống hầu hết được làm bằng vàng, bạc. Tôi thấy chúng Thần trên thiên quốc cũng đều đang học sách “Chuyển Pháp Luân”, nhưng cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” mà chúng sinh trên thiên quốc học có những chữ triện màu vàng kim, cuốn sách là loại sách lật sang bên phải, nội dung và nội hàm văn tự trong sách hoàn toàn khác với cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” tại nhân gian.

Trong thiên quốc không chỉ có những biển hoa đang nở rộ, những cây hoa màu sắc rực rỡ, mà còn có những cây ăn quả sai trĩu trịt, quả trên cây đều căng tròn. Quả chín sẽ tự rời khỏi cành và bay đến chỗ cành cây thấp mà tay có thể với tới được, xếp hàng ngay ngắn ở đó chờ được hái. Phía xa là những cánh đồng lúa gạo, lúa mạch màu vàng. Những cây lúa cao gần 2m, to như cánh tay, hạt lúa to như quả bóng bầu dục tại nhân gian. Hạt gạo nhỏ hơn hạt lúa mạch một chút.

Chúng sinh bách tính trong thế giới thiên quốc sinh sống trên mặt đất, còn các vị Thần có quả vị thì “sinh sống” trong một quần thể kiến trúc giống như cung điện ở trên không trung. Do cảnh giới quả vị khác nhau nên quy mô của cung điện cũng khác nhau.

Ở trung tâm của thế giới thiên quốc có một tòa thiên cung màu vàng rực rỡ, nguy nga, rộng lớn. Phòng ốc có đến mấy vạn gian, bên trong đó có các lâu đài cao đến trăm mét, ở giữa có các cây cầu hình vòm nối giữa các tầng lầu, ẩn hiện trong mây. Tất cả các tòa kiến trúc đều dùng đá trắng làm móng, bậc thềm bằng vàng. Bề mặt các cột trụ được phủ một lớp sơn mài màu đỏ, trên các bình phong và cánh cửa đều trạm khắc những hoa văn tinh xả, diễm lệ. Mái nhà được lợp bằng ngói lưu ly màu vàng, xung quanh các căn phòng được trang trí bằng ngọc lưu ly màu lam và xanh lục.

Trước thiên cung là một quảng trường rất rộng, được lát bằng bạch ngọc, đứng thủ hộ xung quanh là các thiên thần mặc giáp vàng trong tay cầm giáo dài. Phía trước là một cổng cung điện, được đặt trên đài lớn, hai bên cổng là hai tòa lầu gác, cờ bay phấp phới, canh phòng nghiêm ngặt. Đi thêm một đoạn là một tòa chính điện rộng lớn với mái nhà ba gác. Tòa chính điện được xây trên một cái đài hai tầng cao mấy chục mét, đài được trang trí tinh xảo, đẹp mắt, bên trên trạm khắc hình tượng các loài Thần thú. Nhìn ra phía sau của chính điện là vườn hoa của cung đình, xung quanh có các lầu gác cao, những hành lang có mái che, sân khấu biểu diễn, cây cối, hoa cỏ, sơn thủy đầy đủ mọi thứ. Các thiên nhân mặc các loại trang phục lộng lẫy, chân đạp trên mây, đi qua đi lại tấp nập. Bên trong các phòng ốc được trang trí trang nhã, quý phái, long lanh như châu ngọc, các bức tường hoa văn tinh xảo. Đồ dùng ăn uống đều là những đồ vật quý giá, đồ đựng rượu bằng ngọc bích, chén rượu bằng hổ phách, các đồ vật khác đều làm từ mã não, thủy tinh. Chúng Thần trong cung dường như rất bận rộn, trong thiên cung, các tấm màn trướng, màn sân khấu đều được thay thế bằng những tấm vải lụa lớn màu đỏ, phía trước cổng các cung treo các loại đèn cung đình và cờ quạt, khung cảnh tràn ngập không khí vui mừng.

Bên trong tất cả quần thể kiến trúc có một tòa kiến trúc rất đặc biệt, độc lập với các kiến trúc khác, nằm ở vị trí trung tâm của hậu cung, đây là một điện có mái hình tròn ba tầng và đỉnh nhọn, được lợp bằng ngói lưu ly màu lam. Hình dáng tương tự như điện Thiên đàn ở Bắc Kinh. Tên của điện này theo ngôn ngữ của con người gọi là “Điện Điển Tàng”. Bước vào trung tâm của điện có tám bức bình phong lớn hình chữ nhật, trên đó trạm khắc bản đồ núi non sông nước, được trang trí bằng ngọc bích và các loại đá quý. Phía trước bình phong là một chiếc bàn, trên bàn có một cuốn thư tịch rất dày, phía dưới bàn là một cái lư hương màu vàng tím, từ đỉnh lư hương bay ra một làn hương thoang thoảng. Khi tôi động niệm muốn xem cuốn thư tịch thì cuốn sách tự động bay lên và mở ra, từ cuốn sách phát ra một luồng sáng màu vàng, tạo thành một màn hình lập thể rất rộng trong không trung, tư duy của tôi lúc này là trạng thái tư tưởng của sinh mệnh tại không gian khác, nó có phần không giống với trạng thái tư duy của người thường tại nhân gian. “Tư tưởng” của tôi tiến nhập vào màn hình lập thể trong cuốn thư tịch, bên trong là một không gian cực kỳ rộng lớn, tất cả cảnh vật và con người đều trở nên “chân thực”. Thì ra trong cuốn thư tịch ghi chép lịch sử sinh mệnh của tôi vì để đắc Pháp mà đời đời kiếp kiếp chuyển sinh nơi hồng trần thế gian. Tôi thấy tôi đời đời kiếp kiếp đã phải chịu khổ vô số khổ nạn, thấy tôi từng trải qua vô số phong ba bão táp, cô đơn hiu quạnh, chìm nổi chốn quan trường, sinh ly tử biệt, khí thế hào hùng nắm giữ giang sơn.., các quá trình sinh mệnh đều trôi qua trước mắt như mây khói, như bừng tỉnh từ trong giấc mộng. Trang cuối cùng của cuốn thư tịch bỏ trống, là vì tôi hiện đang là đệ tử Đại Pháp còn đang ở thế gian trợ Sư chính Pháp.

Lúc này từ trên thiên không vọng tới từng hồi từng hồi trống hùng dũng, mạnh mẽ. Trước mắt tôi đột nhiên xuất hiện vô số thiên nhân và chúng Thần, nhiều không kể xiết, tất cả đều lặng lẽ ngóng trông tôi, trong ánh mắt vui mừng của họ có chút buồn rầu, lo âu, tràn đầy hy vọng, họ đã ngóng trông tôi như vậy rất lâu, rất lâu rồi. Cùng lúc đó, trong thiên cung vọng ra một hồi âm thanh huyên náo, cửa thiên cung mở ra, một đội nghi lễ gần 1000 người đi ra. Đi cuối cùng là một nữ thiên nhân đoan trang, phong thái tao nhã. Cô trông khoảng 17-18 tuổi, mặc y phục màu xanh nhạt, thắt đai quay eo, trên đỉnh đầu cài một bông hoa mẫu đơn màu xanh lục, đeo một cái vòng màu trắng quanh đầu, quanh thân thể cô có một vòng hào quang rất lớn màu xanh lục, cô đứng trên một đóa hoa sen màu trắng rất lớn, trên cổ đeo một vòng khuyên màu vàng, tay đeo hai chiếc vòng ngọc, tai đeo khuyên tai bằng ngọc màu lục, trên đầu cài một cây trâm bằng ngọc bích, khuôn mặt mỉm cười, dung mạo cực kỳ xinh đẹp. Hai thị nữ đi bên cạnh cô, một người cầm trong tay một cái mâm tròn, bên trên trải một tấm vải lụa trắng, bên trái mâm đặt một cái trùy bằng kim cương, bên phải mâm đặt một cái chuôi như ý màu vàng, trong ký ức của tôi thì đây là những pháp khí mà tôi thường sử dụng khi ở thiên quốc. Vị thiên nhân đó nhẹ nhàng cúi chào tôi và cất giọng dịu dàng, thanh tao nói với tôi: “Thưa Vương của con! Ngài đã vì chúng con mà đã chịu rất nhiều đau khổ, chúng con luôn khắc ghi trong tim những hy sinh của ngài. Ngài mãi là niềm tự hào của thế giới chúng con. Trong những năm tháng tương lai lâu dài, ngài là niềm vinh hạnh của chúng con. Chúng con sẽ mãi tuyên tụng uy đức của ngài. Lúc Ngài trở lại Thiên quốc chính là lúc khởi đầu thực sự cho sinh mệnh của chúng con. Các con dân của ngài đang ngày đêm mong chờ ngày ngài trở về …”

Nói đến đây tôi nhìn thấy hai dòng nước mắt chảy ra từ đôi mắt trong sáng, mỹ lệ của cô, tuôn đầy trên đôi má thanh khiết, theo gió thổi rơi xuống mặt đất nơi thiên quốc, tại nơi nước mắt rơi xuống lập tức mọc lên hai đóa hoa màu lam nhạt, mỗi đóa hoa có bốn cánh hoa, trên cánh hoa có những hoa văn hình sóng nước, tỏa ra mùi hương thoang thoảng như mùi hoa nhài. Lúc này, trong tâm tôi cảm thấy một nỗi thống khổ mãnh liệt như bị kim châm, nhưng lại đau thấu tim gan! Mưa bắt đầu rơi trong thế giới của tôi, những giọt mưa rơi trên mặt đất thiên quốc, trong chốc lát mọc lên vô số bông hoa màu lam nhạt.

Tôi trông thấy thế giới của tôi nở đầy những bông hoa màu lam nhạt đó.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/114463

Nguồn: [ChanhKien.org] 

Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 2)

0

Tác giả: Thiện Dũng

 Thời gian trôi nhanh, thế sự chuyển dời, trăm ngàn năm qua, con người thế gian không có gì thay đổi, trong sự tranh danh đoạt lợi chỉ biết ái tình, trong lục đạo luân hồi, chấp mê tạo nghiệp, nào biết sợ sẽ rớt sâu xuống địa ngục đâu.

Vào triều Đường, tôi chuyển sinh đến Tây Tạng, khi chuyển sinh đến Hồng giáo Tạng mật để tu luyện đời thứ hai, một lần nọ [tôi] cùng các lạt-ma đi đến phía nam Tây Tạng để tham gia một buổi Pháp hội lớn. Dọc đường đi gặp phải một người điên đang ở bên đường kêu hò ầm ĩ về phía chúng tôi. Trông mặt anh ta có vẻ quen quen. Tôi bèn dừng ngựa lại, khai mở công năng túc mệnh thông nhìn vào người điên ấy. Sau khi xem xong, mọi nhân duyên trước đây của tôi và anh ta [được] tận giải. Tôi xuống ngựa đi đến cạnh anh, người điên nhìn tôi một cách mơ hồ, tôi dùng Phật Pháp thần thông đả khai một bộ phận đã bị khóa kín của anh, rồi hỏi: “Anh, có còn nhớ tôi không?” Đôi mắt mơ hồ của người điên dần dần trở nên sáng lên, từ đôi mắt ấy tuôn ra hai hàng lệ, [anh] nắm lấy tay tôi nói: “Hãy cứu tôi!” Tôi trịnh trọng gật đầu một cái, căn dặn các tiểu lạt-ma bên cạnh dẫn người điên về tu viện Hồng giáo.

Thì ra người điên này chính là Pháp Hoàng Tử, người đã cùng tôi ký nguyện ước Chính Pháp với Sư tôn tại thiên quốc, là quốc vương Thái Dương quốc trước đây. Anh chuyển sinh làm tướng quân triều Tùy, Vũ Văn Thành Đô, vào những năm cuối triều Tùy do danh lợi mà tạo phải tội nghiệp lớn, kiếp này chịu quả báo như thế. Do vào triều Tùy anh đã tạo nghiệp to lớn không thể thọ Pháp tu luyện, chỉ có thể khổ hạnh để tiêu đi tội nghiệp trước. Một đời tu không thành được, phải tu tám đời mới có thể hoàn toàn ngộ lại được bản tính cảnh giới Như Lai.

Tôi căn dặn các lạt-ma giao những việc nặng nhọc nhất, dơ bẩn nhất ở trong tu viện cho người điên làm. Mỗi ngày chỉ cho ăn no, nằm ngủ trong chuồng súc vật, cứ như thế trong 7 năm. Một hôm, tôi hỏi người điên: “Này phong tử, anh có vui không?” Người điên trả lời: “Xin thượng sư truyền Pháp độ tôi đến Pháp giới bỉ ngạn”. Tôi nói: “Tội nghiệp của anh rất nặng, một đời không tu thành được”. Người điên nói: “Xin nghe theo mọi điều dạy bảo của thượng sư”. Tôi thấy Phật tính anh ta hiển hiện, cơ duyên đã thành thục, bèn quán đỉnh, truyền Pháp cho anh, chính thức truyền dạy tu luyện Hồng giáo của Tạng mật cho anh. Sau khi truyền thụ một số Pháp lý tu luyện cơ bản của Tạng mật, [tôi] đưa anh ta vào một sơn động bế quan khổ tu, tụng kinh, hối lỗi nghiệp tội. 13 năm sau, tôi lại truyền dạy phương pháp tu định Hồng giáo Mật tông cho Pháp Hoàng Tử—[gọi là] Chuyết hỏa định. 30 năm sau, có một lần tôi đả tọa tu định, nhìn thấy Pháp Hoàng Tử ác nghiệp đầy người, không lâu nữa sẽ rời khỏi thế gian. Vài ngày sau, Pháp Hoàng Tử xuất hiện bệnh trạng nghiêm trọng, trong khi đi ăn xin ở dưới núi, đã gặp phải cướp rồi vô tình mất mạng.

Tiếp đó, Pháp Hoàng Tử chuyển sinh đến một gia đình dân du mục ở Tây Tạng, đợi đến khi Pháp Hoàng Tử 7 tuổi, tôi đón anh về tu viện Hồng giáo để tiếp tục tu luyện. Do tôi chỉ định một vị đại lạt-ma dạy chữ cho anh, học tập kinh điển của Tạng mật, tuy nhiên các kiếp sống trước đây của anh đã tạo nghiệp to lớn, sau khi thành niên rồi vẫn khổ tu ở trong sơn động, cả đời khổ tu cho đến khi hết thọ mệnh. Đời thứ ba Pháp Hoàng Tử chuyển sinh để tiếp tục tu luyện, và vẫn như thế, khổ tu ở trong sơn động, thuận theo thọ mệnh trời định. Tôi cùng các đại lạt-ma dùng Phật Pháp thần thông để quan trắc sự nghiệp cứu độ chúng sinh trong tương lai ở Tạng địa, thấy được tương lai 33 năm sau sẽ có dị tộc tà giáo xâm lược khu vực Tây Tạng, làm hại chúng sinh. Pháp Hoàng Tử chuyển sinh đến làm con trưởng trong một gia đình hoàng tộc ở Thổ Phồn, do một vị đại lạt-ma phụ trách truyền dạy cho anh công phu bộ hạ, mã thượng, học tập phương pháp bài binh bố trận, đồng thời cũng học tập một số kinh điển Tạng mật. 33 năm sau, năm Mộc Thử của lịch Tây Tạng, Pháp Hoàng Tử đánh bại kẻ địch xâm lược dị tộc, cuộc chiến này đã mang lại 480 năm thái bình thịnh vượng cho khu vực Tây Tạng. Vài năm sau Pháp Hoàng Tử mắc trọng bệnh, rời khỏi nhân thế, đại lạt-ma dẫn đạo vong linh của anh chuyển thế, tiếp tục lịch trình tu luyện.

Dưới đất thềm lục địa trái đất nơi chúng ta sinh sống cũng có nhân loại, chỉ là hình dáng lớn nhỏ có sự khác biệt với nhân loại chúng ta. Bề mặt lục địa dưới chân chúng ta có [chằng chịt như mạng nhện] các đường thông đạo xuống lòng đất ở bên dưới, các lạt-ma Tây Tạng ở các thời đại trước nắm rõ được cánh cửa mạch thông đến thế giới dưới lòng đất tại núi Himalaya. Vào thời cổ đại những người dưới lòng đất thường họp mặt định kỳ với các lạt-ma tại miệng thông đạo đưa đến thế giới lòng đất ở giữa các rặng núi, đôi khi những người dưới lòng đất sẽ xin thức ăn từ các lạt-ma. Người lòng đất đặc biệt thích ăn thịt bò y-ắc (giống bò ở vùng Thanh Hải-Tây Tạng); để báo đáp lại, những người dưới lòng đất sẽ tặng các lạt-ma một túi vàng thỏi quặng, có khi nặng đến trên 100 cân (1 cân là 0,5 kg); đây là những thứ họ phát hiện được ở dưới đất, vàng thỏi đối với họ mà nói là không có ý nghĩa gì cả. Đa số những người dưới lòng đất sống dựa trên thị tộc duy trì mối quan hệ huyết duyên. Vào thời cận đại thì loại tiếp xúc này hầu như đã rất ít.

Dưới lòng đất có hồ nước, có dòng sông, các động vật máu nóng cổ xưa, có các thực vật lòng đất… Trên các truyền thông phim ảnh có một số các hồ nước dòng sông của khu vực con người xuất hiện quái thú. Đại đa số là bởi vì những hồ nước, dòng sông này tương thông với các hồ nước dòng sông ở dưới lòng đất. Sẽ có quái thú dưới lòng đất thông qua đường thủy tương thông để lên trên bề mặt, có khi vừa lên đến thì bị con người phát hiện.

Rất nhiều năm nữa lại trôi qua, trải qua bảy đời khổ tu trong Hồng giáo Tạng mật, tôi chuẩn bị viên mãn. Tôi triệu tập tất cả tín đồ, cư sĩ, lạt-ma trong Hồng giáo lại, tổ chức lần Pháp hội cuối cùng của tôi trong kiếp sống này.

Trước lúc mọi người đến, tôi cho triệu Pháp Hoàng Tử đến trước mặt rồi nói: “Trong tương lai, Phật Chủ Di Lặc vì lợi ích của chúng sinh vũ trụ sẽ chuyển sinh đến đất Hán, chuyển Đại Pháp Luân, phổ độ chúng sinh. Đến lúc đó nhân thế sẽ xuất hiện ma vương dẫn theo con cháu đội lốt người để làm loạn nhân gian, nguy hại chúng sinh. Anh và tôi là Giác Giả chính giác của Phật Pháp, nên trợ giúp Phật Chủ Di Lặc chuyển Đại Pháp Luân, Pháp chính càn khôn tại nhân gian. Dù có phải hy sinh sinh mệnh, cũng quyết không chùn bước. Anh còn phải khổ tu hai đời nữa mới có thể viên mãn được. Tôi đã hoàn thành lịch trình tu luyện Hồng giáo, không lâu nữa sẽ chuyển sinh đến đất Hán để làm một số chuẩn bị cho đại sự mai sau”. Pháp Hoàng Tử song thủ hợp thập nói: “Sẽ không phụ kỳ vọng của tôn giả”.

Sau đó Pháp Hoàng Tử lại trải qua hai đời khổ tu, tính tổng cộng là tám đời, hao tốn 538 năm để tu luyện viên mãn trong Hồng giáo.

Tôi cùng vị đồng tu này, chỉ riêng thời gian Pháp duyên thế gian đã bước qua trăm ngàn năm rồi. Tất cả các đệ tử Chính Pháp của chúng ta đã cùng nhau trải qua vô số tháng năm gian khổ, sinh tử cùng nhau, chưa từng từ bỏ nhau. Có lẽ với vô số các khảo nghiệm sinh tử mà chúng ta cùng đi qua đó, một số đồng tu ở trong mê đã phai nhòa đi, bị lịch sử phong bế trong ký ức xa xôi thăm thẳm, tuy nhiên những ký ức này sẽ không thật sự mất đi. Tôi trân trọng Pháp duyên trân quý vô tỷ với các đồng tu, chúng ta cần phải giúp đỡ các đồng tu đã mê mờ trong nhân thế. Họ đã từng cùng chúng ta trải qua vô số các tháng năm gian khổ, sinh tử có nhau. Chúng ta không thể bỏ rơi họ trong thời khắc lịch sử như thế này. Chúng ta hãy cùng tay trong tay trở về nơi thiên quốc quê nhà tốt đẹp vô tỷ đó. Mãi mãi sống trong thế giới huy hoàng thần thánh. Mãi mãi.

(Hết)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/60180

Nguồn: [Chanhkien.org]

Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 1)

0

 

Tác giả: Thiện Dũng

Trong lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng, không một sinh mệnh nào thoát khỏi sự câu thúc của Pháp lý “thành-trụ-hoại-diệt” của vũ trụ cũ. Các vị Thần tại cảnh giới cao thấy được sự biến dị và bại hoại theo tháng năm dài đằng đẵng của các nhân tố vật chất ở tầng thứ của các sinh mệnh tại cảnh giới thấp mà lo lắng bất an. Không chỉ một vị Đại Giác Giả vì để cứu vãn chúng sinh của mình, vì để chứng ngộ Phật Pháp kim cương bất hoại đã liều mình trước nguy hiểm, đầu thai đến thế giới thập ác, [với mục đích] tôi luyện Phật Pháp “tối chính” để mang về thiên quốc của mình. Ngờ đâu nhân thế hiểm ác, chính mình cũng bị hủy tại nơi con người mà không về được nữa. Các vị Thiên Chủ, Như Lai tại các tầng thứ khác nhau đang không ngừng quan sát, suy nghĩ cách giải quyết căn bản với kiếp nạn cuối cùng mà chúng sinh trong vũ trụ đang phải cùng nhau đối diện.

Bấy giờ Sư tôn vĩ đại xuất hiện tại tầng cao của vũ trụ. Trong quá trình chuyển sinh đi xuống tại các tầng, đã khai truyền “Đại Giác chi Pháp” bất khả tư nghị tại các tầng khác nhau trong đại khung vũ trụ. Tuyệt đại đa số các Phật, Đạo, Thần vẫn đang không ngừng quan sát sự biến hóa, phát triển của thế cuộc. Một số Giác Giả quyết tâm trợ giúp Sư tôn chuyển động Pháp Luân, Pháp chính càn khôn tại nhân gian. Sư tôn xuống đến tầng thứ thiên thể vũ trụ [nơi] sinh mệnh tôi đang tồn tại, giảng một lần Pháp cho tất cả Đại Pháp Vương, Thiên Chủ tại tầng thứ đó của tôi. Sau khi nghe Sư tôn giảng Pháp xong, tôi càng hiểu rõ thêm nội hàm thâm sâu của sự tồn tại của sinh mệnh, quyết tâm trợ Sư Chính Pháp. Thế là tôi và bốn vị Đại Pháp Vương trong cảnh giới đó của tôi cùng theo Sư tôn đi xuống nhân thế. Khi xuống đến một nơi gọi là thế giới thiên quốc Đại Quang Minh, bên bờ núi xanh khe suối, trông thấy người con trai của Pháp Vương Như Lai ở cảnh giới đó đang khổ tâm nghĩ cách giải cứu kiếp nạn cho chúng sinh. Tôi liền bay đến bên cạnh của Pháp Hoàng Tử và nói với anh: “Phật Chủ sẽ giáng hạ xuống phàm, chuyển Đại Pháp Luân, phổ độ chúng sinh. Đây là cơ hội tốt nhất, tại sao không theo Phật Chủ cùng nhau đi xuống thế gian tôi luyện, đúc nên Pháp kim cương bất hoại?” Pháp Hoàng Tử không chút lưỡng lự, nói: “Mong được thượng thần dẫn kiến, bái kiến Phật Chủ, để bày tỏ tâm ý”. Tôi nói: “Hãy theo tôi”. Tôi và Pháp Hoàng Tử đi đến thiên cung Đại Minh Uyển của Sư tôn.

Sư tôn ngồi trên đài sen cao, Pháp tướng thần thánh trang nghiêm vô tỷ. Khấu đầu xong, tôi nói: “Thưa Phật Chủ, hai người chúng con nguyện cùng Ngài đi xuống nhân thế, trợ giúp Ngài hồng dương Phật Pháp, cứu độ chúng sinh”. “Hai người phải biết nhân thế hiểm ác, con đường gian khổ?” Tôi nói: “Hai người chúng con nguyện dựa vào Pháp lực của Phật Chủ, không sợ sống chết. Để bày tỏ quyết tâm, xin dùng thệ ước làm chứng”. Sư tôn từ bi nhìn chúng tôi, vẫy tay một cái, trước mắt liền xuất hiện hai chiếc bàn, trên bàn có hai cuộn giấy giống như lụa màu vàng. Tôi viết lên, thệ ước: “Một, dùng chính niệm để chứng thực Phật Pháp vĩ đại. Hai, nếu như có tà ác phá hoại Đại Pháp, nhất định sẽ dùng tính mạng để duy hộ, bảo vệ Pháp điển vĩ đại trang nghiêm. Ba, nếu có làm trái thệ ước, tất sẽ gặp ác báo hình thần toàn diệt”. Trong số các đệ tử Đại Pháp, một số đồng tu ở các tầng thứ thiên quốc khác nhau đã từng ký thệ ước với Sư tôn. Nội dung cơ bản không khác nhau nhiều, chỉ là trọng điểm không giống nhau.

Sau khi từ biệt Sư tôn, ra khỏi Đại Minh Uyển, Pháp Hoàng Tử nói với tôi: “Nhân thế gian nan hiểm ác, năm tháng dài đằng đẵng, nếu có mê mất cũng mong thượng thần gia hộ cho”. Tôi nói: “Tôi chắc chắn sẽ duy hộ, không để mê mất. Nếu như tôi có mê mờ trong nhân thế, cũng hy vọng Pháp Hoàng Tử cứu tôi khỏi phút sinh tử”. Pháp Hoàng Tử nói: “Tôi chắc chắn cũng phải dùng sinh mệnh để duy hộ”.

Pháp Hoàng Tử sắp phải đi xuống, Như Lai và chúng Thần thân thiết nơi thiên quốc Đại Quang Minh lưu luyến không nỡ, lệ tuôn đầy mặt, sợ rằng lần ly biệt này sẽ không còn ngày gặp lại Pháp Hoàng Tử. Pháp Hoàng Tử nhìn chúng Thần kiên định mà nói: “Tôi nhất định sẽ trở về, đây là một hạt giống Thiên diệp cúc, khi cánh hoa màu vàng thứ 1.000 của Thiên diệp cúc khai nở, thì chính là thời khắc tôi sẽ trở về!” Nói xong bèn mang hạt giống Thiên diệp cúc để vào trong đất của thiên quốc, rồi kiên quyết quay lưng đi xuống. Hai người chúng tôi cùng chúng Thần theo Sư tôn tiếp tục đi xuống nhân thế. Quá trình từ thiên quốc đi xuống đến tam giới, dùng quan niệm thời gian của con người cũng là tháng năm cực kỳ dài đằng đẵng không cách nào hình dung được.

Khoảng 67 triệu năm trước, quỹ đạo vận hành của trái đất không phải như hiện nay, nó gần với mặt trời hơn, nhiệt độ trên trái đất hàng năm cao hơn, nhiệt độ bề mặt bình quân hàng năm là 45 độ C trở lên. Khi đó nhân loại đa số là sống trong các hang động hoặc trong lòng đất. Thềm lục địa cũng không phải hình dáng như hiện nay. Khi đó bắc bán cầu của trái đất có hai thềm lục địa lớn chủ yếu, là nơi cư ngụ của tộc người khổng lồ, dáng người trông khoảng 3 mét. Còn nam bán cầu có bốn thềm lục địa, đa số là do người tầm trung, người thấp bé cư ngụ, ở giữa nam bắc bán cầu còn có một số hòn đảo và quần đảo với hình thù to lớn. Do đó cự nhân, trung nhân, tiểu nhân sống xen kẽ với nhau.

Động, thực vật trên lục địa có sự khác biệt to lớn so với các động thực vật đang tồn tại trên trái đất hiện nay. Khoảng 67 triệu năm trước, trên lục địa, trên bầu trời, trong lòng biển của trái đất có đầy các loại hình quần thể khủng long. Thực vật trên lục địa chủ yếu là các loại cây lớn nhiệt đới và tảo. Trái đất vào lúc đó đã từng là khu vườn lạc thú của loài khủng long. Trong lòng đại dương cũng có mấy chủng nhân loại. Khi đó chủng tộc mỹ nhân ngư đã tồn tại ở trong lòng đại dương. Dưới biển còn có một loại nhân ngư, tính tình hung tàn. Có cả hai loại hệ thống hô hấp bằng phổi và bằng mang, bề mặt thân thể phủ chi chít vảy, màu xám thép. Hai con mắt ở phần đầu chiếm 1/3 khuôn mặt, phần mũi có 2 lỗ, miệng giống như của cá chép, ở trong trải đầy các răng sắc nhọn, dáng cao gần 2 mét. Có màng giữa các ngón tay, và chân. Loại nhân ngư này thường xuyên bò lên mặt đất để ăn thịt [chủng] người tầm trung và các loại khủng long ở lục địa. Vũ khí của chúng là xương sườn của các di hài động vật khổng lồ được mài sắc. Tại hai thềm lục địa lớn của bắc bán cầu, nơi chủng người khổng lồ tập trung sống chủ yếu, có 13 quốc gia vương quốc, khi đó tôi sống tại vương quốc tộc người khổng lồ ở vùng phía đông nhất. Vì [là nơi] thấy mặt trời sớm nhất, nên quốc gia này được gọi là Thái Dương chi quốc, có 13 loại tín ngưỡng tôn giáo trong 4 quốc gia. Do bất đồng tín ngường mà thường xuyên xảy ra chiến tranh.

Theo tập tục khi đó, ngay từ lúc còn nhỏ (mới bỏ sữa mẹ), tôi đã được Đại Tế tư của Thái Dương quốc lựa chọn, tiến hành học tập tôn giáo, tu luyện, đồng thời làm người kế tục của ông. Tác dụng của Đại Tế tư là quan sát thiên tượng, dự đoán thịnh suy của quốc gia, dự báo thiên tai tự nhiên, phụ tá quốc vương, lấy đức trị quốc, thừa tiếp Thiên ý, giáo hóa dân chúng, khôi phục nguyên khí. Trải qua 35 năm gian khổ độc tu trong tôn giáo, tôi tiến nhập vào trạng thái tiệm ngộ cao độ, chiếu theo Thiên ý, bắt đầu hồng dương Phật Pháp. Phật Pháp mà tôi chứng ngộ, hồng dương có tên là Pháp Đại Nhật Giác. Trên dưới người dân trong Thái Dương quốc, bao gồm cả quốc vương đều là tín đồ của Phật Pháp. Các chiến sĩ của bộ tộc thống nhất việc ăn ở, thống nhất kỹ năng luyện tập quân sự, cũng thống nhất tiến hành tu luyện tôn giáo, giống như là các võ tăng Thiếu Lâm thời xưa vậy, quyền thiền hợp nhất. Quốc vương của Thái Dương quốc, Hakan Achilles (đứa con của chúng Thần) thường xuyên mời tôi đến hoàng cung để cùng với các chúng đại thần nghe tôi tuyên giảng Phật Pháp, người quốc vương này chính là vị Pháp Hoàng Tử của thế giới Đại Quang Minh đã nói đến ở trên. Có một khoảng thời gian, tôi vào cung nhiều lần trông thấy Hakan Achilles bỏ bê triều chính, suốt ngày lấy rượu làm niềm vui, thấy vậy tôi đã nói với quốc vương Thái Dương quốc: “Thưa đại vương, những tháng ngày qua, ý chí của ngài sao lại chùng xuống. Ban đêm tôi quan sát thiên văn, thấy được quốc gia tà giáo Tư Mễ Đảo đang liên kết với các vương quốc lân cận có ý đồ đại quy mô xâm chiếm nước ta, không biết đại vương đã có dự tính gì chưa?” Hakan Achilles cười nói: “Nước chúng ta quốc phú dân cường, chiến sĩ quân đội dũng mãnh, người Tư Mễ Đảo sao dám đến tấn công, ta đã chán mệt với việc đánh nhau chém giết, nên an hưởng sự phồn hoa thịnh vượng”.

Tôi nói: “Hạnh phúc của một người đối với bản thân anh ta mà nói là rất quan trọng, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người đang bị tà giáo mê hoặc. Sự sống chết giống như một con cừu lạc treo trên dây, trời cao đã giao phó cho đại vương trách nhiệm lịch sử vĩ đại, đại vương cần phải cứu chúng sinh thiên hạ trước cơn nước sôi lửa bỏng. Giữa hạnh phúc cá nhân và lợi ích của chúng sinh thiên hạ đại vương cần phải có sự lựa chọn, hy vọng đại vương hãy lấy chúng sinh thiên hạ làm trọng, tu kỷ trị quốc, vì chúng sinh thiên hạ mà khai sáng cơ nghiệp thiên cổ, vĩnh viễn vui hưởng thái bình thịnh vượng”. Quốc vương Thái Dương mặt đầy nét hổ thẹn, nói: “Ta nhất định sẽ ghi nhớ lời nói của ông, vì để dân chúng thiên hạ hạnh phúc vĩnh cửu, ta sẽ cống hiến mọi thứ của ta”. Từ đó, quốc vương Thái Dương quốc Hakan Achilles nghiêm khắc với chính mình, chăm lo trị quốc, toàn lực tận tâm trị vì đất nước, trải qua cố gắng gian khổ đã đánh bại liên minh của tà ác, thống nhất được hai thềm lục địa của tộc người khổng lồ.

Sau khi tất cả chiến sự kết thúc, Hakan Achilles, vị vua của quốc gia người khổng lồ đứng trên đỉnh của một ngọn núi, ngón tay chỉ về phía đường chân trời xa xôi và nói với tôi: “Những vùng đất mà ta đã đi qua, tất cả quốc thổ của ta, đều là những nơi ông sẽ hồng dương Phật Pháp. Nếu như cần sự giúp đỡ, ta sẽ toàn tâm tận sức. Ta trao quyền cho ông, hãy giáo hóa muôn dân của ta nhé!” Tôi nói: “Thưa đại vương, tôi nhất định không phụ sứ mệnh….” Bảy nghìn năm sau, Phật Pháp mà tôi hồng truyền đi vào thời kỳ mạt pháp.

Một buổi sáng yên bình, khi con người mới thức dậy sau giấc ngủ say, giữa bầu trời con thằn lằn bay đang vươn đôi cánh dài gần 10 mét kèm theo tiếng kêu chói tai nhằm về phía con mồi. Trong khu rừng lá rộng nhiệt đới một con kiếm long đang dẫn theo con nhỏ của nó uống nước bên dòng nước yên tĩnh, không xa đó một con khủng long bạo chúa háu ăn đang nhăm nhe mẹ con của kiếm long. Bất chợt từ nơi xa truyền đến một loại âm thanh đặc biệt, âm vang, tất cả đám khủng long trong rừng đều vểnh tai lên hướng về nơi mà âm thanh truyền đến, mọi người sợ hãi ngẩng đầu nhìn về nơi góc trời; một tiểu hành tinh với đường kính 25 km (bằng với một thành phố nhỏ) mang theo âm thanh ầm ầm dữ dội do sự ma sát với không khí phát ra, đang đâm vào trái đất với tốc độ 30 km/giây. Không lâu sau truyền đến một tiếng nổ lớn kinh thiên động địa, toàn bộ trái đất đều đang rung chuyển. Trái đất bị đâm lệch khỏi quỹ đạo vốn có, bay xa ra khỏi mặt trời. Sau khi tiểu hành tinh này đâm trúng trái đất, cùng với sự va đập của tiểu hành tinh, mấy thềm lục địa lập tức chìm xuống đáy biển. Sau va chạm các mảnh vụn của đá, bụi, cộng thêm nước biển bị khí hóa đã hình thành nên một đám mây hình nấm khổng lồ, không ngừng, không ngừng dâng cao bao phủ cả bề mặt của trái đất, che lấp ánh mặt trời, trái đất rơi vào trong đêm tối. Đồng thời cơn sóng thần khổng lồ cao đến 5 km, cuốn quanh cả trái đất, tiếp theo đó là các trận mưa lớn không ngớt liên tục cả mấy ngày. Đáng sợ hơn nữa chính là do sự va chạm của tiểu hành tinh đưa đến đại biến động của lớp vỏ trái đất và thềm lục địa. Một số hòn đảo lục địa chìm xuống đại dương. Một số lục địa dưới biển vụt khỏi mặt biển hướng thẳng lên trời theo lực va chạm của tiểu hành tinh. Đại dương trước đây biến thành lục địa, còn lục địa trước đây cùng tất cả sinh mệnh, văn minh trên bề mặt của nó chìm sâu xuống dưới biển. Do thềm lục địa và vỏ trái đất không ổn định, không ngừng dịch chuyển, sự va chạm đã đưa đến vô số sự phun trào liên tục của các núi lửa lớn nhỏ, trái đất khói bụi cuồn cuộn cả ngày, tay giơ ra không thấy được 5 ngón. Tro núi lửa dày đặc bốc lên bao phủ cả bề mặt trái đất, tình trạng này kéo dài 32 năm. Do trên trái đất không có đủ ánh sáng mặt trời, các động thực vật gần như là chết hết, loài khủng long cũng do đó mà dần dần tuyệt chủng, trái đất bước vào thời kỳ băng hà. Và như vậy nhân loại của thời kỳ này đi đến sự kết thúc. Những người còn sống sót bước vào một thời kỳ văn minh tiếp theo.

Trong quá trình đại biến động của thềm lục địa, một ngọn núi nằm kề bờ biển ở dưới đáy biển đã nhô lên khỏi mặt biển hơn 8.000 mét, vùng bờ biển đó kết hợp với lục địa vươn cao lên mấy ngàn mét so với mực nước biển. Nhân loại ngày nay của chúng ta gọi ngọn núi ấy là núi Chomolungma, còn cao nguyên do vùng bờ biển ấy hình thành gọi là cao nguyên Thanh Tạng.

(còn tiếp…)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/60179

Nguồn: [Chanhkien.org]

Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành

0

Thiện Dũng

Phần thứ nhất

Núi Thần Sơn Thánh Hồ trên cao nguyên Thanh Tạng là núi Thần được thế giới công nhận, đồng thời được Phật giáo Tạng truyền, Ấn Độ giáo, tôn giáo nguyên thủy Tây Tạng coi là trung tâm của thế giới. Trong những năm Trinh Quán triều Đường, quân vương Tùng Tán Cán Bố của vương triều Thổ Phiền đã nổi dậy ở tại lưu vực sông Nhã Lỗ Tàng Bố. Sau khi thất bại trong việc xâm phạm biên giới Đại Đường, ông đã dâng thư lên Thiên triều Đại Đường xin chịu tội và cầu hôn công chúa Đại Đường, hy vọng có thể có thể bang giao hữu hảo, thuận hòa với Đại Đường. Thái tôn hoàng đế Đại Đường vì muốn ổn định biên cương, vì muốn nhân dân hai dân tộc Hán-Tạng tránh khỏi lầm than bởi chiến tranh, đã chọn từ trong hoàng thất ra Lý Uyển Nhi, một cô công chúa dịu dàng, đài các, đoan trang, phong cho công chúa hiệu là Văn Thành, để kết hôn với vua nước Thổ Phiền. Trước lúc lên đường, công chúa Văn Thành đến kim điện ở hoàng cung khấu tạ ân điển của hoàng thượng. Thái tôn hoàng đế nói: “Văn Thành, con đi Thổ Phiền chuyến này đường xá xa xôi, trách nhiệm nặng nề. Là công chúa của Thiên triều mà lại gả cho Thổ Phiền, hãy nhớ trách nhiệm của con là giữ cho hai nước bang giao hữu hảo, hoằng dương văn hóa của Thiên triều, giáo hóa dân tộc man rợ. Con hãy đừng để tâm đến được mất của cá nhân, hãy nên đặt hạnh phúc của bách tính Thổ Phiền và Thiên triều ở trong tâm. Ta sẽ phái vua của thành Giang Hạ và tùy tùng tiễn con vào Tây Tạng. Văn Thành, con còn mong cầu gì không?” Văn Thành đáp: “Con xin đa tạ ân điển của Thánh thượng. Văn Thành không có mong cầu nào khác, con sẽ dốc hết sức để báo đáp long ân của phụ hoàng…”

Công chúa Văn Thành đi vào Tây Tạng cùng với đội tùy tùng đưa dâu vô cùng long trọng, thiên tử Đại Đường ban cho cô rất nhiều của hồi môn và tư trang quý giá. Trong đó có tượng Phật Thích Ca Mâu Ni màu vàng đến nay vẫn được thờ cúng tại Đại Chiêu tự ở Lạp Tát (vùng đất của Thần). Đoàn tùy tùng đi theo công chúa Văn Thành vào Tây Tạng còn có các văn sỹ, nhạc sỹ, nông dân, thợ kiến trúc lành nghề của Đại Đường v.v.. Công chúa Văn Thành phải trèo đèo, lội suối cực khổ hàng tháng trời mới đến được tỉnh Thanh Hải nơi đầu nguồn của con sông Hoàng Hà. Vua Thổ Phiền đã chờ đợi công chúa ở đó một thời gian dài, bị thu hút bởi vẻ đoan trang, cao quý của công chúa, vua Thổ Phiền lập tức cho tổ chức đại hôn lễ tại kinh thành Lạp Tát. Nhân dân tưng bừng ca hát, nhảy múa chúc mừng hôn lễ, cả kinh thành tràn ngập niềm vui.

Thời gian trôi đi, công chúa Văn Thành hàng ngày tỉ mỉ chăm chút cho cuộc sống của Tùng Tán Cán Bố, nàng tự mình nấu các món ăn của Đại Đường và may các y phục của Đại Đường. Khi Tùng Tán Cán Bố ăn các món ăn tinh tế do đích thân công chúa nấu, khoác lên thân những y phục của Đại Đường, trong tâm ông vô cùng kinh ngạc, từ đó càng thêm kính trọng và yêu thương nàng công chúa đến từ Thiên triều này. Công chúa Văn Thành cũng thường dạy chữ Hán cho Tùng Tán Cán Bố, lúc quốc vương không bận việc triều chính, công chúa thường chơi đàn tỳ bà cho Tùng Tán Cán Bố nghe những khúc nhạc của triều Đường, kể cho Tùng Tán Cán Bố những giai thoại của Trung Nguyên, khiến cho Tùng Tán Cán Bố bị cuốn hút sâu sắc bởi văn hóa triều Đường. Công chúa Văn Thành quan sát tỷ mỉ cuộc sống của dân chúng Thổ Phiền, rồi đề xuất các kiến nghị hợp lý giúp vua Thổ Phiền điều hành quốc gia. Trước khi Tùng Tán Cát Bố đưa ra những quyết sách trọng đại quyết định vận mệnh của quốc gia, công chúa Văn Thành đều đóng góp những ý kiến chân thành và phù hợp, giúp vua Thổ Phiền trị vì tốt quốc gia. Tuy được Tùng Tán Cán Bố tin tưởng nhưng công chúa không cầu công danh địa vị, mà vẫn thiện đãi những thần dân xung quanh, mang lại nhiều lợi ích cho quảng đại dân chúng Tây Tạng, nhờ vậy mà cô nhận được sự ủng hộ của đa số các đại thần của vương triều Thổ Phiền.

Vẻ đẹp và trí tuệ của công chúa Văn Thành khiến cho đại phi (vợ cả) của Tùng Tán Cán Bố vô cùng đố kỵ, bà ta đã dùng rất nhiều tiền để mời hai pháp sư hãm hại công chúa. Vì công chúa chính khí lẫm liệt, từ bi, lương thiện, nên được thiên thần bảo hộ. Đại phi không những không thể làm hại được công chúa, mà bản thân còn bị Thần linh trừng phạt, bà đột nhiên mắc một căn bệnh quái ác, ban ngày bà thường thấy những ác quỷ vây xung quang, ban đêm thì cả đêm không ngủ được, ngày một suy nhược, thời gian dài hô hấp khó khăn như có gì đó nghẹn trong họng. Công chúa Văn Thành biết chuyện đã hỏi ý kiến quốc y của Thiên triều đi theo mình. Quốc y nói: “Loại bệnh này dễ chữa, nhưng thuốc dẫn thì khó tìm!” Công chúa nói: “Xin hỏi cần loại thuốc dẫn gì?” Quốc y nét mặt tỏ vẻ miễn cưỡng, công chúa lại thúc giục, ông đành trả lời rằng: “Cần dùng máu của kim chi ngọc thể (con gái nhà quyền quý) làm thuốc dẫn”. Công chúa trầm tư rời đi, không bao lâu sau quay lại mang theo một bình máu nhỏ và nói: “Ta là công chúa, là kim chi ngọc thể, có thể dùng máu của ta làm thuốc dẫn, xin quốc y điều chế để trị bệnh cho đại phi”. Đại phi nhờ có thuốc dẫn mà bệnh tình mau chóng thuyên giảm, khi biết được nguyên nhân khỏi bệnh của mình, bà nước mắt đầm đìa, vội đến chỗ của công chúa xin tha tội. Công chúa nói: “Chúng ta là chị em, lẽ nào không nên giúp đỡ nhau, em hy vọng chị có thể nhanh chóng khỏi bệnh”. Đại phi cảm động không nói nên lời.

Từ khi công chúa vào đất Tạng sinh sống, để giúp công chúa sớm thích nghi với cuộc sống ở cao nguyên, vua Thổ Phiền đã ban cho nàng hai tỳ nữ. Trong đó có một tỳ nữ vì cha mắc trọng bệnh không có tiền chữa trị nên đã lấy trộm một ít trang sức bằng vàng của công chúa để chữa bệnh cho cha. Sự việc sau đó bị bại lộ, theo pháp luật của vương triều Thổ Phiền, nếu nông nô lấy trộm vật quý của chủ nhân thì sẽ bị lột da. Công chúa Văn Thành với lòng từ bi đã tha tội cho tỳ nữ đó, công chúa còn phái thầy thuốc chữa bệnh miễn phí cho cha cô ấy. Đó là hai sự việc được lưu truyền rộng rãi trong người Tạng.

Cứ cách vài tháng, công chúa lại đi vi hành đến các gia đình người Tạng để tìm hiểu những nỗi khổ của họ, quan tâm đến đời sống của họ, đồng thời dùng hết khả năng của mình để giúp đỡ họ. Đức hạnh cao thượng của công chúa khiến dân chúng Tây Tạng đều xem công chúa là người trời.

Thời ấy, ở Thổ Phiền có một tập tục xấu là nếu cha mẹ già yếu, không có khả năng lao động thì con cái có thể bỏ cha mẹ ở nơi hoang dã, phó mặc cho tự sinh sống và tự chết. Công chúa Văn Thành khi đi vi hành gặp sự việc này rất lo lắng, nàng đến nói với Tùng Tán Cán Bố rằng: “Thưa Tùng Phổ (Đại vương), đất nước chúng ta vì sao có thể lập quốc?” Tùng Tán Cán Bố trả lời: “Nhờ Phật Pháp”. Công chúa lại hỏi tiếp: “Vậy tại sao lại vứt bỏ cha mẹ ở nơi hoang dã không ai chăm sóc, giương mắt nhìn cha mẹ chết có phải là tàn nhẫn không?” Tùng Tán Cán Bố trả lời: “Tập tục này đã có từ thượng cổ, sinh tử luân hồi, con người chết đi thì cuối cùng cũng trở về với cát bụi”. Công chúa nói: “Cha mẹ sinh ra ta, nếu không hiếu thuận với cha mẹ, không phụng dưỡng cha mẹ lúc già cả thì có khác chi loài cầm thú? Thần Phật sáng tạo ra vạn vật, vạn vật đều tuân theo quy tắc của nó, mọi thứ đều phải thuận theo thiên lý. Nếu làm trái với thiên lý, làm sai việc nhỏ thì một người sẽ phải chết, làm sai việc lớn thì một quốc gia sẽ diệt vong, từ xưa đến nay đã có rất nhiều bài học về điều này. Người xưa có câu: Quân vi thần cương; Phụ vi tử cương; phu vi thê cương (ý nghĩa là người trên ‘quân, phụ, phu’ phải chăm sóc, bảo vệ, bao dung người dưới ‘thần, thê, tử’), đó là luân lý của con người, nếu không tuân theo đạo làm người thì không phải là con người, tất sẽ bị trời diệt. Quốc gia như vậy cũng là đi ngược lại với thiên ý và cũng không thể trường tồn. Xin Tùng Phổ suy nghĩ kỹ, lệnh cho thiên hạ từ nay trừ bỏ đi tập tục xấu này. Trên là thuận với thiên ý, dưới là hợp với lòng dân, có như thế vương triều của chúng ta mới có thể thiên thu vạn đại”. Vua Thổ Phiền trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Lời của công chúa rất phải, ta sẽ tức khắc ban bố pháp lệnh, người già trong gia đình cần phải được an hưởng tuổi già, con cháu cần phải tận tình chăm sóc cho đến lúc lâm chung”. Do công chúa dùng chính lý của Phật Pháp cứu được rất nhiều người nên ngày càng được thần dân yêu mến, kính trọng. Trong thời gian ở đất Tạng, công chúa Văn Thành đã phái thợ thủ công tham gia thiết kế, xây dựng Đại Chiêu Tự và Tiểu Chiêu Tự. Đồng thời, công chúa còn phái những người nông dân của Thiên triều đã cùng theo mình vào Tây Tạng dạy người Tạng cách khai hoang, cày ruộng, gieo trồng, nuôi tằm dệt vải. Những kỹ năng này đã giúp cải thiện cuộc sống của người Tạng. Vua Thổ Phiền tiếp thu ý kiến của công chúa, phái con cháu dòng dõi quý tộc đi sứ sang Đại Đường, đến kinh thành Trường An để học tập văn hóa triều Đường mang về Thổ Phiền. Trong 40 năm sống ở đất Tạng, công chúa Văn Thành đã nỗ lực hết sức nâng cao các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự của Thổ Phiền, giúp Thổ Phiền trở thành một quốc gia biên giới vô cùng quan trọng bảo vệ lãnh thổ Đại Đường.

Công chúa Văn Thành sau khi vào đất Tạng đã góp phần cải thiện rất nhiều mức sống và chất lượng cuộc sống của người dân Thổ Phiền, thúc đẩy xã hội Thổ Phiền phát triển, củng cố vùng biên thùy của Đại Đường. Dân chúng Tây Tạng coi công chúa như Thần tiên. Sau khi công chúa qua đời, dân chúng Tây Tạng đã lập miếu thờ tưởng niệm công chúa tại Thanh Hải Ngọc Thụ, thành phố Lạp Tát và nhiều nơi khác, các miều thờ vẫn được duy trì đến ngày nay.

Phần thứ hai

Trong lịch sử 5000 năm Hoa Hạ, từng màn kịch lịch sử lớn diễn ra trên vũ đài Trung Nguyên lần lượt hạ màn, các nhân vật trong màn kịch người buồn kẻ vui, người sống kẻ chết, tất cả cuối cùng đều tan biến theo khói mây lịch sử. Hôm nay, 1300 năm sau khi công chúa Văn Thành đến đất Tạng, Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền khắp thế giới, rất nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử giờ đã trở thành đệ tử Đại Pháp. Trong một cơ duyên trùng hợp, tôi gặp một đồng tu tên là Hồng Liên (hóa danh), khi chia sẻ với cô ấy, tôi thấy được chính tín kiên định của Hồng Liên đối với Sư phụ và quá trình tu luyện Chính Pháp mà cô ấy đã trải qua, điều này khiến tôi chấn động sâu sắc.

Hồng Liên đắc pháp ngày 27/7/2000, ngày 29/9/2000 cô đã bắt đầu bước ra giảng thanh chân tướng trực diện và phát tài liệu Đại Pháp cho người dân. Sau khi Hồng Liên và đồng tu mở pháp hội giao lưu chia sẻ, cô cho rằng mình nên đến Bắc Kinh hộ Pháp. Nhưng cô còn lo lắng vì mình đắc Pháp muộn, nếu làm không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Đại Pháp. Các đồng tu khích lệ cô ấy: “Tâm cô thuần tịnh như vậy chắc chắn sẽ không có vấn đề gì đâu, Sư phụ sẽ gia trì cho cô”. Thế là Hồng Liên hạ quyết tâm cùng bốn đồng tu giăng biểu ngữ tại quảng trường Thiên An Môn vào buổi trưa ngày 1/2/2000 để chứng thực Đại Pháp. Sau đó cô bị giam giữ phi pháp tại trại giam Triều Dương, Bắc Kinh. Trong thời gian bị giam giữ phi pháp, cô dẫn dắt các đồng tu tuyệt thực để kháng nghị việc bị bắt giữ phi pháp, cảnh sát sai các nữ tội phạm hình sự đánh đập tàn bạo các nữ đệ tử Đại Pháp. Vì để bảo vệ đồng tu, cô nói với họ rằng: “Chính tôi đã bảo mọi người tuyệt thực, các cô đừng đánh họ, hãy đánh tôi đây này!” Một nữ tội phạm hình sự nói: “Chúng tôi không đánh cô, chúng tôi phải đánh họ, tôi không ưa họ”, nói xong bốn nữ tội phạm hình sự không ngừng đánh vào mặt và đầu của một nữ đồng tu. Thấy tình huống nguy cấp, Hồng Liên gọi một nữ tội phạm hung ác nhất đến và nói với cô ấy đạo lý thiện ác hữu báo, chân tướng về Đại Pháp… Sau khi hiểu rõ sự thực, nữ tội phạm cảm động nói: “Nể mặt Hồng Liên, chúng ta đừng đánh nữa”. Trận bức hại này đã dừng lại. Trong các hoàn cảnh khác, Hồng Liên cũng nhiều lần bảo vệ các đồng tu, cuối cùng cô tuyệt thực, không chịu để tà ác bức thực, phản đối giám thị, không mặc áo tù, không làm lao dịch, cô liên tục giảng chân tướng Đại Pháp, chính niệm mà phá trừ bức hại của cựu thế lực, nhờ đó cô đã đường đường chính chính bước ra khỏi động quỷ.

Tháng 10 năm 2001, vì bị người xấu bán đứng, Hồng Liên bị tịch biên tài sản và bị đuổi việc, cô buộc phải sống lưu lạc, cô tham gia các công việc Đại Pháp ở vùng khác và đạt hiệu quả rõ rệt. Không may là do đồng tu có sơ hở bị cảnh sát lần ra tung tích, xông vào nơi ở Hồng Liên và đồng tu. Đồng tu tâm sợ hãi lớn, sau khi trốn thoát đã khóa mất lối ra duy nhất, khiến cho Hồng Liên không cách nào thoát thân. Tâm của cô trở nên rất nặng nề, nhưng cô lập tức lấy Pháp lý của Đại Pháp điều chỉnh lại tâm thái, quay lại đường đường chính chính đối diện với cảnh sát. Sau đó cô bị giam giữ phi pháp ở trại giam tà ác nhất trong vùng, hắc lao này được xem là nơi đạt 100% tỷ lệ chuyển hóa đệ tử Đại Pháp. Những hành vi bức hại tàn khốc đối với các đệ tử Đại Pháp ở trong hắc lao này đã nhiều lần được vạch trần trên internet.

Trước khi bị thẩm tra, Hồng Liên xuất ra một niệm cường đại: Tà ác không thể nhắc đến hai chữ “chuyển hóa” với ta, ta phải giảng chân tướng Đại Pháp cho chúng. Liên tục nhiều lần thẩm tra, Hồng Liên bằng tâm thái từ bi, không oán không hận đã nói cho cảnh sát về vẻ đẹp của Đại Pháp. Tất cả cảnh sát đều im lặng chăm chú nghe chân tướng Đại Pháp, lần nào cũng kết thúc cuộc thẩm tra bằng việc giảng chân tướng. Cuối cùng cảnh sát trong vùng phải thông báo cho công an ở nơi cư trú của Hồng Liên, họ đã cử ba người đến nơi Hồng Liên bị bắt giữ phi pháp để xác nhận thân phận của cô. Vì Hồng Liên liên tục nhiều ngày tuyệt thực, không phối hợp với cảnh sát, khiến họ thất bại trong việc chuyển hóa cô, cảnh sát ở quê nhà của Hồng Liên nói: “Người này thân phận không rõ ràng, chúng ta không chịu trách nhiệm, không quản được cô ấy”. Thế là cảnh sát trại giam giao Hồng Liên cho trạm trục xuất, tuy đã tuyệt thực nhiều ngày nhưng cô vẫn từ bi giảng chân tướng Đại Pháp cho những người mà cô gặp. Buổi trưa hôm sau, cảnh sát ở trạm trục xuất chỉ nói với Hồng Liên một câu: “Cô đi đi”. Vậy là đến ngày thứ chín, dưới sự từ bi coi sóc của Sư tôn, Hồng Liên đã được phóng thích vô điều kiện. Nhưng nhiều đồng tu cùng bị bắt với cô đã bị kết án phi pháp lên đến trên 10 năm, tối đa bị kết án 18 năm. Hôm đó là ngày 23/7/2002, khi đó Hồng Liên mới đắc Pháp vỏn vẹn hai năm.

Tháng 4 năm 2004, Hồng Liên trở về quê nhà nơi cô đã xa cách nhiều năm. Để cứu độ chúng sinh, phá trừ bức hại của cựu thế lực về kinh tế, Hồng Liên bắt đầu một quá trình khó khăn giảng chân tướng để được quay trở lại đơn vị công tác. Trải qua bốn tháng giảng chân tướng kiên trì không nản và liên tục tu chính bản thân, cô đã khiến cho đơn vị công tác cũ từ lãnh đạo cấp cao cho đến đa số các đồng nghiệp xung quanh minh bạch chân tướng Đại Pháp, cuối cùng đã phá trừ được tầng tầng ngăn cản và bức hại của cựu thế lực, Hồng Liên chính thức được trở lại vị trí công tác cũ với mức lương không thay đổi, và còn được truy lĩnh tất cả số tiền lương trong thời gian cô phải đi lưu lạc. Đồng thời thông qua quá trình giảng chân tướng, Hồng Liên còn giúp những đồng tu khác tại đơn vị công tác cũng bị bức hại đòi được tiền lương đã bị lấy mất.

Hồng Liên cũng thường xuyên giúp những đồng tu bên cạnh mình viên dung hoàn cảnh gia đình, khai sáng hoàn cảnh tu luyện trong gia đình của họ. Một lần một đồng tu vì bình thường làm việc không lý trí mà không viên dung được hoàn cảnh gia đình, khiến cho người nhà không thể lý giải được Đại Pháp, thậm chí công kích Đại Pháp, lên mạng bôi nhọ Đại Pháp. Sau khi biết chuyện, Hồng Liên lập tức quyết định tổ chức một bữa tiệc nhỏ mời đồng tu và gia đình đến, phá trừ những hiểu lầm của người nhà đồng tu đối với Đại Pháp, chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh.

Trong bữa tiệc, người nhà đồng tu hỏi Hồng Liên rằng: “Các cô tu luyện Đại Pháp mà sao ích kỷ thế, làm việc nhà thì cẩu thả, nói năng bất thiện, điên điên rồ rồ?” Hồng Liên từ bi, ôn tồn nói: “Người tu luyện giống như đi học vậy, chúng tôi chắc chắn có chỗ tu chưa tốt, mong mọi người thông cảm. Chúng tôi có điểm nào chưa tốt cũng mong mọi người tha thứ! Sư Phụ của chúng tôi dạy chúng tôi phải vô tư vô ngã, tiên tha hậu ngã. Bây giờ chúng tôi chưa làm được, nhưng tương lai nhất định sẽ làm được, bởi vì chúng tôi đang không ngừng tu chính bản thân. Mọi người hãy yên tâm, chúng tôi sẽ làm được tốt. Chỉ cần chúng tôi làm theo yêu cầu của Đại Pháp thì nhất định sẽ khiến cho mọi người hài lòng”. Sự đoan chính, thiện lương cùng cử chỉ, lời nói lễ phép của Hồng Liên đã gây ấn tượng cho người nhà của đồng tu, chính niệm của cô đã thay đổi cái nhìn không tốt của người nhà đồng tu đối với đệ tử Đại Pháp, giúp đồng tu có một hoàn cảnh tu luyện tốt hơn.

Chính niệm chính hành của Hồng Liên thể hiện trong mọi hoàn cảnh sinh hoạt, từ ăn mặc, đối nhân xử thế, thói quen sinh hoạt, thói quen làm việc đều khiến những người xung quanh và đồng tu khen ngợi. Sự từ bi, lương thiện, quang minh chính đại, chính niệm kiên định vào Đại Pháp của cô đã khích lệ các đồng tu xung quanh, cải biến nhận thức của đồng nghiệp, bạn bè, người thân quanh cô về Đại Pháp. Cô rất ít nói, nhưng lại khiến cho mọi người cảm thấy cô rất thiện lương và cao thượng. Trong khi chia sẻ, tôi hỏi Hồng Liên: “Vì sao cô có thể làm được như vậy?” Hồng Liên đáp: “Kiên định tin vào Sư Phụ, tin vào Đại Pháp! Tôi là một lạp tử của Đại Pháp, tôi nên làm những việc ấy, đó cũng là những việc tôi phải làm”. Nghe xong lời ấy, tôi bất giác xúc động rưng rưng nước mắt. (Trên đây chỉ là một phần quá trình tu luyện mà Hồng Liên kể lại cho tôi)

Nhìn nụ cười rạng ngời của Hồng Liên, tôi phảng phất trông thấy Văn Thành, nàng công chúa lặng lẽ cầu nguyện cho chúng sinh trong ánh nắng ban mai. Cô giống như bông tuyết liên nở rộ trên cao nguyên, lặng lẽ tỏa hương thơm ngát. Khoảnh khắc thần thánh ấy sẽ tồn tại vĩnh viễn trong dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử, vĩnh viễn tồn tại trong ký ức của tôi…

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/68526

Nguồn: [ChanhKien.org]

Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya

0

Tác giả: Thiện Dũng

Mỗi sinh mệnh trên thế gian đều có đặc điểm, đặc tính riêng, giống như mỗi chiếc lá trên cây cổ thụ tươi tốt, tuy hình dạng giống nhau nhưng không thể tìm thấy hai chiếc lá hoàn toàn giống nhau. Ngày nay, mỗi đệ tử Chính Pháp tu luyện nơi thế tục đều có hoàn cảnh tu luyện và trạng thái tu luyện khác nhau, đều chứa đựng nội hàm lịch sử thâm sâu. Trong quá trình luân hồi lâu dài trong tam giới, lịch sử sinh mệnh của mỗi đệ tử Đại Pháp đều nhằm đặt định ra cảnh giới và tố chất mà mỗi đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp cần phải có.

Cách đây khoảng 40.000 năm, người Maya sinh sống và phát triển trên vùng đất rộng lớn, phì nhiêu ở lục địa Nam Mỹ, họ đã xây dựng lên một đế quốc hùng mạnh – đế quốc Maya. Đế quốc Maya là quốc gia nửa phong kiến nửa nô lệ, quyền lực tập trung ở trung ương, có dân số khoảng 45 triệu người. Tín ngưỡng của phần lớn dân chúng giống với tín ngưỡng của người da vàng ở vùng Trung Á và Tây Á ngày nay, đó là Phật giáo, vị Phật mà họ thờ phụng là Phật Tích Lư Già Na. Lãnh thổ của đế quốc rộng lớn bao la, nằm ở trung tâm của cao nguyên Braxin, bao phủ phần lớn các nước Venezuela, Colombia, Peru, Argentina ngày nay. Ngành luyện kim khá phát triển, các thiết bị cơ khí họ sử dụng đa số được làm từ đồng và sắt. Về lĩnh vực chăn nuôi, họ chăn nuôi các loại gia súc lớn như trâu, ngựa, lạc đà, lợn v.v. số lượng lên đến hơn 300 triệu con. Những vùng đất nông nghiệp rộng lớn trồng ngô, lúa mỳ, mía, bông, khoai tây, cà chua, thuốc lá v.v., ngoài ra còn có rất nhiều các loại cây ăn quả nhiệt đới. Ngành hàng hải và ngư nghiệp cũng rất phát triển. Đội tàu lớn của đế quốc thường xuyên vượt biển liên lục địa, ngoài thực phẩm mang trên thuyền, các thuyền viên thường săn bắt những loài cá to như cá voi làm thức ăn.

Các đời vua của đế quốc Maya đều tiến hành chiến tranh với các quốc gia thờ phụng tà giáo ở các châu lục trên thế giới. Các quốc gia tà giáo đa phần đều thờ phụng một loại tà linh có mắt của rắn hổ mang và có cánh.

Vua của đế quốc Maya bấy giờ đã đến tuổi trung niên, nhưng có một điều khiến ông rất khổ tâm đó là ông chưa có con để kế thừa ngôi vua. Do vậy, sau bảy ngày tịnh tâm, gột rửa, ông đến trước tượng Phật cầu xin ban cho một đứa con. Vị vua Maya này đời trước từng là một cư sỹ thiện tâm, ông đã từng cúng dường thức ăn cho một người xuất gia khổ hạnh độc tu. Về sau người tu luyện này vì tâm tranh đấu không bỏ mà không đắc chính quả, chuyển sinh thành vua của đạo A Tu La. Vì xã hội thời đó đạo đức suy đồi, nhân tâm bất chính, tà giáo hoành hành, chúng sinh bị nghiệp lực báo ứng, vua của đạo A Tu La đã chuyển sinh thành con trai của vua Maya, được đặt tên là Hồng Thạch.

Ba năm sau, ngành chăn nuôi và nông nghiệp của Maya được một mùi bội thu, cả trăm năm mới có một lần, cây lúa phần lớn đều trổ hai bông, gia súc phần lớn đều đẻ hai con. Đến đầu mùa thu, một số loại hoa trái mùa vẫn nở rộ. Trong một căn nhà gỗ giữa rừng sâu, ngày nay thuộc lãnh thổ Venezuela, một thai phụ trẻ đang mang thai sắp sinh, liên tục mấy ngày có rất nhiều loài chim màu sắc rực rỡ đậu trên những cành cây quanh căn nhà gỗ hót líu lo ríu rít, còn có hàng trăm động vật nhỏ vây quanh căn nhà gỗ, thấy người trong thôn, chúng cũng không khiếp sợ, dù người dân trêu chọc thế nào chúng cũng không bỏ chạy, tất cả đều giương những con mắt lớn nhỏ chăm chú nhìn vào căn nhà gỗ như đang nóng lòng chờ đợi điều gì. Trong một cái hồ nhỏ cách thôn làng không xa, thỉnh thoảng những con cá lớn nhảy lên khỏi mặt nước, phát ra những âm thanh lớn, người dân trong thôn đều rất ngạc nhiên.

Thai phụ trẻ sinh hạ một bé gái, hương thơm đầy khắp phòng, sau khi bé gái cất tiếng khóc chào đời, các loài chim nhỏ, động vật nhỏ đều cất những âm thanh huyên náo như tiếng reo mừng, một thời gian lâu sau chúng mới dần dần lũ lượt rời đi. Quan lại địa phương biết chuyện lập tức trình báo lên triều đình về hiện tượng dị thường này. Vua Maya cũng rất kinh ngạc, liền tìm đến một vị cao tăng đại đức gần 400 tuổi để hỏi nguyên do. Vị cao tăng nhìn về hướng nơi bé gái vừa được sinh ra, hợp thập nói: “Đây là điềm lành của đế quốc”. Bé gái này là Nguyệt Quang Bồ Tát từ thượng giới chuyển sinh, đến để cứu độ chúng sinh khỏi khổ nạn. Vua Maya hợp thập quỳ trước cao tăng nói: “Đệ tử vẫn còn một vấn đề không hiểu, xin pháp sư chỉ giáo, vì sao khi bé gái đó sinh ra có rất nhiều chim thú tụ tập xung quanh, gặp người mà như không thấy, dù con người trêu chọc cũng nhất quyết không chịu rời đi”. Cao tăng tuy tuổi tác đã cao, lông mày và râu trắng như tuyết, nhưng khi từ từ mở mắt thì ánh mắt sáng rực và mạnh mẽ giống như ánh sao, ông chăm chú nhìn vua Maya nói: “Đó là do Phật tính từ bi, ân đức cảm hóa vạn vật. Những con vật nhỏ này được Phật tính từ bi cảm hóa đến tụ tập xung quanh cô bé, trong ánh hào quang của Phật tính mà cảm thấy thiện lương, hạnh phúc và bình tĩnh, quên hết tất cả sợ hãi”. Cao tăng nói xong khép hai mắt lại và không nói gì nữa, vua Maya cung kính cúi đầu rồi rời đi. Sau khi trở về cung, ông liền hạ lệnh: “Cô bé này sau khi thành niên sẽ trở thành vương phi của Hồng Thạch, triều đình sẽ chu cấp mọi thứ mà cô bé cần dùng, đến khi năm tuổi sẽ được đưa vào chùa của nữ tăng để tu hành, phái các nữ quan có đạo đức cao thượng đến bảo vệ và chăm sóc cho cô bé”, ông đặt tên cô bé là Minh Nguyệt Nhi.

Mười mấy năm sau, vua Maya đưa Hồng Thạch đến chùa của nữ tăng để thăm Minh Nguyệt. Minh Nguyệt nghe tin đã đến tiếp kiến nhà vua. Cô chưa kịp vào phòng đã nghe thấy âm thanh vui tai phát ra từ chiếc ngọc bội cô đeo trên người, đi đến cửa đã ngửi thấy mùi hương kỳ lạ hiếm có ở thế gian thoang thoảng khắp phòng. Sau khi gặp nữ tăng trụ trì và vua Maya, Minh Nguyệt đứng dậy rời đi. Hồng Thạch nhìn Minh Nguyệt không rời mắt, thấy Minh Nguyệt dung mạo thanh tú, dáng người uyển chuyển, thần thái đoan trang, đặc biệt là đôi mắt to mỹ lệ, trong sáng rạng ngời, như biển lớn sâu thẳm, như ánh mặt trời ấm áp. Hồng Thạch dần dần say đắm vẻ mỹ lệ của Minh Nguyệt. Vua Maya quay sang nữ tăng hỏi: “Vì sao trên thân của Minh Nguyệt Nhi lại có mùi hương kỳ lạ đến vậy?” Nữ tăng đáp: “Cô bé ấy từ nhỏ đến nay thân thể luôn tỏa ra mùi hương tự nhiên như vậy, chưa từng trang điểm gì”. Vua Maya và nữ tăng tiếp tục nói chuyện, bàn đến chuyện hôn sự của Thạch Hồng và Minh Nguyệt, chọn ngày lành tháng tốt để Minh Nguyệt và vương tử Maya chính thức thành thân.

Sau khi kết hôn, vương phi Minh Nguyệt sinh hạ một bé gái, Thạch Hồng rất vui mừng khi có cô con gái hoạt bát hiếu động này, mỗi khi xử lý xong chính sự quốc gia, anh thường ở bên cô bé. Bảy năm sau, vua Maya đã già và mắc bệnh qua đời, Hồng Thạch kế thừa ngôi vua, vương phi Minh Nguyệt trở thành hoàng hậu. Việc làm đầu tiên của hoàng hậu là giúp cho Phật giáo được truyền bá rộng rãi trên toàn quốc, cô sử dụng nguồn lực quốc gia để phổ cập văn hóa, giáo dục; gia tăng đãi ngộ phúc lợi xã hội cho dân chúng; thành lập hiệp hội phụ nữ toàn quốc, quan tâm, chăm sóc cho địa vị, cuộc sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ trong xã hội. Cô còn khuyến khích vua Maya hãy lấy đức trị quốc, thống lĩnh thiên hạ. Cô nhiều lần giúp vua Maya xử lý, giải quyết xung đột biên giới, tránh xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia.

Hoàng hậu đối xử với rất từ bi với mọi người, dù các nô bộc trong cung phạm lỗi, hoàng hậu Minh Nguyệt cũng sẽ giảng rõ đạo lý để các nô bộc sửa chữa sai lầm, không tái phạm lại sai lầm nữa. Tất cả những người tiếp xúc với cô đều vô cùng kính phục phẩm cách cao thượng của hoàng hậu Minh Nguyệt. Trí huệ và sự từ bi siêu thường của hoàng hậu Minh Nguyệt đã cảm phục dân chúng toàn đế quốc. Tất cả phụ nữ trong đế quốc Maya đều lấy hoàng hậu Minh Nguyệt làm gương, hoàng hậu ăn chay nên phụ nữ toàn quốc đều dấy lên phong trào ăn chay, mỗi loại trang phục và trang sức mới dù giản dị hay cao quý của hoàng hậu sẽ ngay lập tức trở nên thịnh hành trong giới nưx toàn quốc. Thậm chí dầu tắm gội chế từ thảo dược mà hoàng hậu thường dùng cũng trở thành mục tiêu tìm kiếm của những phụ nữ quý tộc. Nhưng quan trọng hơn là sự từ bi của hoàng hậu Minh Nguyệt đã giáo hóa mọi người phụ nữ thời đó, từ những bé gái cho đến những bà lão tóc bạc đều biết rõ những việc hành thiện của hoàng hậu. Hoàng hậu Minh Nguyệt khơi nguồn cho các phong trào thịnh hành thời đó. Sau khi Hồng Thạch lên ngôi vua đã thực hiện các biện pháp để củng cố thêm quyền thống trị, tăng cường xây dựng quân đội, gia tăng số lượng cấm vệ quân từ 1 vạn người lên đến 4 vạn người, quân đội chính quy thường trực trên toàn quốc tăng từ 40 vạn người lên đến 100 vạn người, quân đội dự bị tăng lên đến 300 vạn người. Tiêu chuẩn tuyển chọn cấm vệ quân là ngoài việc phải được rèn luyện trong chiến tranh và có kỹ năng chiến đấu cực kỳ cao siêu ra thì trước khi được phục vụ chính thức, những người này còn được phái đến những quốc gia đối địch ở Bắc Mỹ, sống tối thiểu một tháng trong hoàn cảnh không có bất kỳ sự chi viện nào của hậu phương, đồng thời phải mang về ít nhất một thủ cấp và vật biểu tượng quân hàm của quân nhân phe địch. Những cấm vệ quân này đa phần là những thuộc hạ A Tu La chuyển sinh theo vua A Tu La.

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Các quốc gia tà giáo ở đại lục phương Bắc lo sợ trước sự hùng mạnh của đế quốc Maya, đã tìm mọi cách ngăn cản và phá hoại sự ổn định và phồn vinh của đế quốc Maya. Họ dùng rất nhiều vàng để mua chuộc một tín đồ tà giáo ẩn trong các quan của vương triều, âm mưu đầu độc hoàng hậu nhưng kế hoạch bất thành, họ liền ra tay hạ độc con gái của vua Maya.

Vua Maya biết được sự thật đã nổi trận lôi đình, đem xử tử toàn bộ những người liên quan. Qua nhiều ngày suy nghĩ, vua Maya triệu tập hội nghị quân sự cấp cao. Đứng trước các tướng lĩnh, vua Maya nghiêm túc và trang nghiêm, ánh mắt của ông sắc bén như chim ưng từ từ nhìn qua mỗi cấm vệ quân hung hãn bên mình, nhìn qua từng khuôn mặt của mỗi vị tướng lĩnh chiến công lừng lẫy bên cạnh mình, cuối cùng ánh mắt ông dừng lại trước một vị tướng quân một mắt và bình tĩnh ra lệnh: “Tập hợp toàn bộ quân đội của đế quốc, ban lệnh động viên chiến tranh trên toàn quốc”. Nói xong rời đi, theo sau là đội cấm vệ quân.

Những ngày tiếp theo, vua Maya trước tiên xuất quân bình định các quốc gia ở Nam Mỹ thờ phụng “Dực mãng thần”. Trong chiến tranh, vua Maya đã truyền lệnh tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành: Hễ gặp người chống cự lại thì giết không tha, hễ gặp người tín ngưỡng tà giáo mà không cải biến giết không tha. Sau khi vua Maya mang sư đoàn Hổ Lang của mình bình định toàn bộ Nam Mỹ, ông tập kết gần vạn chiến hạm vượt đại dương và gần 120 vạn quân viễn chinh, với lòng phẫn nộ và hận thù bừng bừng đặt chân lên đại lục phương Bắc (đại lục Bắc Mỹ). Ngoài việc tấn công chính diện, vua Maya còn bí mật phái ba đạo cấm vệ quân, mỗi đội có quân số một vạn người, đi đánh úp thủ đô của ba quốc gia tà giáo chủ chốt ở đại lục Bắc Mỹ, ám sát quốc vương của các quốc gia đó. Mệnh lệnh đặt ra là bằng mọi giá phải thực hiện được mục tiêu chiến lược.

Sau một tháng quân viễn chinh tấn công thẳng vào đại lục Bắc Mỹ, ba đạo quân cấm vệ quân đã tập kích thành công, đô thành của ba nước bị phá hoại thiêu hủy thành tro, chỉ có một vị quốc vương bị trọng thương chưa chết và đã được cứu sống. Quân đội ba nước bị mất đi đầu não chỉ huy thống nhất nên hỗn loạn không chống trả được, bị vua Maya tập trung ưu thế binh lực đánh bại. Đại quân Maya đi đến đâu thì chó gà cũng không còn, thành bang làng mạc đều bị thiêu trụi, trong suốt một thời gian ở đại lục Bắc Mỹ đâu đâu cũng trở thành những vùng đất chết chóc, hoang tàn. Hoàng hậu Minh Nguyệt sau khi biết được tình hình chiến tranh đã lập tức viết thư khuyên nhà vua hãy nhân từ với người dân, khoan dung, tha thứ cho phụ nữ và trẻ nhỏ. Sau nhiều lần khuyên bảo, vua Maya đều không động lòng, vẫn tiếp tục thực thi các chính sách chiến tranh diệt chủng. Sau năm năm, chiến tranh tàn khốc cũng bước vào giai đoạn cuối, vị quốc vương tà giáo cuối cùng đã bị đại quân Maya vây khốn trong một thung lũng, trong lúc hấp hối, ông ta đã cho gọi một thầy phù thủy nắm vững ma pháp hắc ám của ‘Dực mãng thần’ đến và nói: “Ta sẽ dùng tất cả mọi thứ mà ta có để đánh đổi, xin ngài nhất định phải thực hiện nguyện vọng của ta, xin ngài hãy báo thù cho ta và thần dân của ta”. Thầy phù thủy mặc áo bào đen nhìn quốc vương đang hấp hối bằng con mắt đỏ ngầu, chậm rãi gật đầu đồng ý, sau đó quay người biến mất trong dãy núi tối đen. Chiến tranh kết thúc, vua Maya thống lĩnh đại quân A Tu La của mình trở về đô thành ở Nam Mỹ.

Nhà vua quay trở về bên hoàng hậu Minh Nguyệt, nhưng hoàng hậu không biểu lộ một chút vui mừng nào, ánh mắt nghiêm nghị nhìn vua Maya. Vua Maya nhìn vào đôi mắt to mỹ lệ của Minh Nguyệt và hỏi: “Vương hậu, ta đã báo được thù cho con gái chúng ta, đại quân của chúng ta đã bình định được tất cả các quốc gia tà giáo, ta đã trở về bên cạnh nàng, vì sao nàng lại không vui vậy?” Minh Nguyệt đứng dậy hành lễ với vua Maya và nói: “Đại vương, trời cao có đức hiếu sinh, nhưng ngài lại giết hại sinh linh khắp nơi, khiến cho gần 40 triệu người dân ở năm nước bị tàn sát hết, tội nghiệp sát sinh sâu nặng như trời như biển, Thần Phật đã cảnh báo cho thiếp rằng thần dân, con cháu của ngài cũng sẽ bị lời nguyền rủa diệt chủng”. Vua Maya nghe xong, trở nên trầm mặc không nói gì, hạ giọng hỏi lại: “Không có cách nào có thể bù đắp sao?” Hoàng hậu Maya đáp: “Có, thứ nhất là ngài cần phải tích đức hành thiện, không được dẫn quân đi tàn sát sinh linh nữa; thứ hai là cần phải toàn tâm hướng Phật, chỉ có tu Phật mới có thể bù đắp tội lỗi trước đây; ba là thiếp sẽ thỉnh cầu Thần Phật, chúng ta sẽ cùng gánh chịu trừng phạt”. Sau khi nghe xong, vua Maya run run người nhìn hoàng hậu mà không nói được lời nào.

Năm sau đó, vì vua Maya vô đức tàn sát sinh linh, quốc gia của ông đã phải gánh chịu sự trừng phạt của Thần: động đất, núi lửa phun trào; bệnh dịch hoành hành, dân số giảm mạnh; nước biển dâng, khí hậu biến đổi, sản lượng nông nghiệp thấp và mất mùa; gia súc chết rất nhiều, khắp quốc gia đâu đâu cũng đầy mùi tử khí. Tử thần tự do hoành hành trên vùng đất đã từng rất màu mỡ này. Vua Maya ăn ngủ không yên, thân thể tiều tụy, hoàng hậu nhìn thấy cảnh ấy, trong tâm rất đau khổ. Sau khi biến mất trong suốt một tháng, hoàng hậu Maya lại xuất hiện trước mặt nhà vua, dáng vẻ vẫn thuần khiết, dịu dàng, mỹ lệ như lần đầu tiên Hồng Thạch gặp hoàng hậu. Vua Maya vội vàng hỏi: “Những ngày qua, vương hậu đã đi đâu, ta thực sự rất nhớ nàng!” Hoàng hậu lấy cuốn sách dày bằng vải lụa trong tay người thị nữ bên cạnh mình và nói: “Trong một tháng qua, thiếp đã đến nhờ ba vị cao tăng để hỏi xem thần dân Maya sau này còn phải gặp những đại nạn gì, kết hợp với những điều mà Thần Phật đã khai thị cho thiếp biết mà viết thành cuốn sách này, để cảnh báo cho con cháu đời sau của người Maya cách tránh khỏi tai họa. Cuốn sách này ghi chép lại lời tiên tri về những sự kiện sẽ xảy ra liên tục cho đến khi vị Phật Chủ vĩ đại nhất vũ trụ tương lai giáng hạ nhân gian để cứu vớt tất cả sinh mệnh trong vũ trụ, con cháu của người Maya chúng ta cũng sẽ được Phật Chủ cứu vớt, đến lúc đó lời tiên tri sẽ kết thúc”.

Vua Maya nghe xong vô cùng chấn động, ông xem một lượt cuốn sách tiên tri, liên tục mấy ngày ăn ngủ rất ít, tập trung toàn bộ tinh thần xem từng chương từng đoạn của cuốn sách tiên tri. Mấy ngày sau, hoàng hậu Maya lâm bệnh nặng, phải nằm liệt giường không dậy được. Sau hơn chục ngày, vua Maya đến thăm hoàng hậu, vừa ngồi xuống thì thấy hoàng hậu tinh thần tươi tỉnh hơn so với những ngày trước, vua Maya rất vui mừng. Hoàng hậu nói: “Đại vương, thiếp thỉnh cầu ngài giao cuốn sách tiên tri này cho một vị pháp sư đại đức gìn giữ, lưu truyền cho hậu thế”. Vua Maya gật đầu đồng ý. Hoàng hậu lại nói tiếp: “Đại vương, nơi đây sắp trở thành vùng đất bị nguyền rủa, sau khi thiếp qua đời, thỉnh cầu ngài lập tức rời đô để duy trì nòi giống con cháu người Maya”.

Vua Maya nói: “Vương hậu nói gì vậy, nàng sẽ nhanh chóng khỏe lại thôi”. Minh Nguyệt chỉ khẽ cười, tiếp tục nói: “Đừng vì sự ra đi của thiếp mà bi thương, có thể vì người mà thiếp yêu, vì những người dân mà thiếp đã nhiệt thành yêu mến mà phó xuất sinh mệnh của mình, đối với thiếp thì đó đã là một điều hạnh phúc rồi. Mặc dù biệt ly nhưng sẽ có ngày gặp lại. Ngài sẽ vĩnh viễn sống trong tim thiếp!” Nói xong hoàng hậu Maya chỉ lặng lẽ nhìn vua Maya, ánh mắt của nàng rất chăm chú, như muốn vĩnh viễn khắc ghi hình ảnh của vua Maya trong tim mình. Trong khoảnh khắc, đôi mắt cô phát ra ánh sáng kỳ lạ, cô mỉm cười, nụ cười của cô giống như ánh mặt trời sưởi ấm trái tim của nhà vua. Cứ như thế, hoàng hậu Maya mang theo nụ cười rạng rỡ như ánh mặt trời rời xa tất cả mọi thứ mà cô đã yêu mến.

Sau lễ quốc tang của hoàng hậu, vua Maya rời đô đến đại lục Bắc Mỹ, thuộc địa phận của Mexico ngày nay, xây dựng lại kinh đô mới. Kể từ khi hoàng hậu qua đời, cuộc sống hàng ngày của vua Maya đều chìm trong nỗi nhớ nhung da diết, bất cứ sự việc gì cũng không thể làm ông vui vẻ trở lại. Nhiều năm sau, khi vua Maya đã về già, ông đến quỳ trước tượng Phật, nhớ đến nỗi đau mất đi con gái yêu và hoàng hậu mà không cầm được nước mắt, than rằng: “Phật đà vĩ đại! Con biết con phạm tội nghiệp sâu nặng, con xin thành tâm sám hối trước mặt người vì tất cả những tội nghiệp của con. Con tuy là đế vương, nắm giữ tất cả mọi quyền lực và tài sản trong thiên hạ, nhưng con lại không thể giữ được người mà con yêu! Con không còn muốn làm một con người bình thường nơi trần thế nữa, xin ngài ban cho con trí huệ và sức mạnh để con có thể cứu vãn được sinh mệnh của những người khác. Ngay cả khi con không còn gì cả, con cũng muốn có năng lực cứu người”.

Vài năm sau, vua Maya qua đời, thế hệ sau của ông sinh sống tại đại lục Bắc Mỹ rộng lớn, cuốn sách ghi lại những lời tiên tri của hoàng hậu Maya được lưu truyền rộng rãi trong những người Maya. Trong số những người lưu truyền cuốn sách các đời sau có một số là người tu luyện trong tôn giáo đã đạt đến cảnh giới rất cao, họ đã thêm một số lời tiên tri của mình vào cuốn sách tiên tri này. Cho đến ngày nay, nhân loại chúng ta thời kỳ này gọi nó là lời tiên tri Maya, trong suốt mấy vạn năm lưu truyền, một số nội dung đã bị mất đi, nhưng những nội dung chủ yếu vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay.

13.000 năm sau khi vua Maya qua đời, một vương tộc người Maya nắm giữ ma pháp hắc ám đã sử dụng năng lực thần giao cách cảm của ma pháp để liên hệ với những sinh mệnh đến từ hành tinh Orion, họ đã ký kết với ma giới. Người ngoài hành tinh dùng khoa học kỹ thuật ngoài hành tinh giúp vương tộc này phát triển quân sự, gây chiến với các nước xung quanh, họ bắt rất nhiều tù binh và các loại động thực vật, cung cấp cho người ngoài hành tinh làm mẫu vật sống nghiên cứu. Ngoài ra, họ còn sử dụng ma pháp hắc ám để kéo dài tuổi thọ cho những người ngoài hành tinh cao cấp. Người ngoài hành tinh cao cấp để tỏ lòng cảm ơn, đã tặng cho vương tộc Maya một chiếc hộp sọ pha lê. Trong tầng nguyên tử của chiếc hộp so pha lê này có lưu trữ lịch sử phát triển của người ngoài hành tinh, một số lý luận và thành quả về vũ trụ mà người ngoài hành tinh tìm hiểu và nhận biết được. Về sau, một số người tu luyện chính pháp thấy rằng hộp sọ pha lê là một phương tiện lưu giữ thông tin rất tốt, nên một số người tu luyện ở cảnh giới cao đã sử dụng khoa học ngoài hành tinh mà con người lúc bấy giờ nắm vững được để chế tạo ra một số hộp sọ thủy tinh nữa, họ dùng công năng đưa những pháp lý vũ trụ mà mình chứng ngộ được lưu vào trong hộp sọ pha lê. Họ dùng chúng làm pháp khí tôn giáo lưu lại cho những người tu luyện hậu thế; cũng có một số hộp sọ pha lê là do đế vương đời sau nhờ các pháp sư trong tôn giáo chế tạo để kỷ niệm những vĩ nhân hoặc một thời kỳ lịch sử đặc thù nào đó trong quá khứ.

Chỉ có 13 hộp sọ pha lê được lưu truyền đến ngày nay. 13 hộp sọ pha lê này được những người khác nhau chế tạo trong các thời kỳ khác nhau với các mục đích khác nhau. Người Maya ký kết giao ước với người ngoài hành tinh đã phát triển gần 5000 năm, họ muốn dùng khoa học kỹ thuật của người ngoài hành tinh để thoát khỏi sự khống chế của người ngoài hành tinh nhưng họ đã bị người ngoài hành tinh tiêu diệt hoàn toàn bằng vũ khí biến đổi gien và vũ khí hạt nhân. Trước khi họ bị tiêu diệt, căn cứ cuối cùng của họ ở khu vực trung và hạ lưu sông Amazon.

Năm tháng vô tình. Hôm nay sau hàng vạn năm, hoàng hậu Maya đã chuyển sinh thành một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, cô vẫn thừa hưởng vẻ đẹp mỹ lệ truyền kỳ thời tiền sử, chỉ là đôi mắt to đẹp luôn u sầu, bất cứ ai từng gặp cô đều không khỏi chấn động trước khí chất của cô, thân thể cô vẫn tỏa ra mùi hương rất kỳ diệu như trước đây. Cô tích cực tham gia các hạng mục Chính Pháp của đệ tử Đại Pháp và đạt hiệu quả rất tốt. Vua Maya cũng là một đệ tử Chính Pháp, anh ấy thực sự có được năng lực cứu người mà Đại Pháp ban cho, nhưng cũng đúng như thệ ước của anh: đời này anh đúng là không có gì cả, chỉ có năng lực cứu người. Có lúc hồi tưởng lại từng giai đoạn sinh mệnh mà đồng tu đã trải qua trong lịch sử, quả thực khiến người ta cảm xúc thăng trầm, xúc động tận tâm can.

Đứng từ giác độ con người ngày nay để tìm hiểu lịch sử, chúng ta không còn thấy được đế quốc Maya hùng mạnh đã từng xuất hiện tại đại lục Châu Mỹ nữa, chỉ có thể qua một số di tích cổ đại mà cảm nhận được sự huy hoàng của thời đại Maya tiền sử. Tôi phảng phất nhìn thấy những cung điện hùng vĩ, những tường thành, cột trụ và lăng mộ, dường như vẫn đứng sừng sững qua những năm tháng lịch sử đau thương, hiển hiện cho chúng ta thấy sự phồn hoa năm xưa.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/118575

Nguồn: [ChanhKien.org]