Chủ Nhật, 24 Tháng Chín 2023

Bí ẩn của lịch sử Trái Đất mà tôi được biết (8): Văn hóa thần truyền – truyền thuyết long tộc

Xem tiếp: Phần 7

Lời dẫn:

Thuận theo tiến trình Chính Pháp không ngừng tiến đến không gian bề mặt và sự liên tục đề cao tâm tính, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, trí huệ và năng lực mà Đại Pháp cấp cho tôi cũng càng ngày càng mạnh. Đại Pháp cũng đã triển hiện những chân tướng tại các tầng vũ trụ khác nhau tương ứng với cảnh giới tu luyện của tôi, bao gồm cả những bí ẩn trong lịch sử của Trái đất, nay xin viết ra để các đồng tu cùng tham khảo.
Văn hóa thần truyền – truyền thuyết long tộc (loài rồng)

Rồng là loài Thần thú trong các thần thoại và truyền thuyết cổ đại của Trung Quốc và vùng Đông Nam Á, rồng tượng trưng cho điềm lành. Văn hóa về rồng cũng là một trong những nét văn hóa truyền thống tiêu biểu nhất của các dân tộc vùng Đông Nam Á và Trung Hoa, là một bộ phận cấu thành của văn hóa thần truyền, nó đã được truyền thừa hàng trăm nghìn năm nay trên vùng đất Thần Châu. Vậy thì loài Thần thú này là do con người tưởng tượng ra hay có thật? Từ xưa đến nay, trong sử sách các thời đại khác nhau và trong dân gian đều có những ghi chép về sự xuất hiện của rồng, thực thực giả giả, vàng thau lẫn lộn, hôm nay đứng tại giác độ người tu luyện, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về tính chân thực của sự việc này.

Trong rất nhiều sự kiện liên quan đến rồng thì sự kiện “rồng rơi ở Doanh Khẩu” xảy ra vào thời cận đại chắc chắn là sự kiện đáng chú ý nhất. Mùa hè năm 1934, vùng Doanh Khẩu, Trung Quốc liên tục mưa lớn trong hơn 40 ngày, nước sông Liêu tăng vọt, khiến cho bờ phía bắc sông Liêu biến thành một biển nước. Cá tôm chết nổi trên mặt nước, không khí bốc lên một mùi hôi thối khó chịu. Sau khi mưa lớn hết, người ta đã phát hiện ra một bộ xương rồng lớn tại bãi cỏ lau cách cửa sông Liêu 10km, tin tức về sự kiện “rồng rơi chết” này nhanh chóng lan truyền khắp toàn quốc, những người hiếu kỳ tại ba tỉnh đông bắc Trung Quốc nô nức bắt tầu hỏa đến Doanh Khẩu để được tận mắt quan sát bộ xương của rồng. Lúc đó “Thời báo Thịnh Kinh” là tờ báo đầu tiên cử phóng viên đến tận nơi tìm hiểu. Ngày 12/8/1934, trong ấn bản đặc biệt của “Thời báo Thịnh Kinh” đã đăng bài viết kèm theo hình ảnh chụp bộ xương rồng, bài báo miêu tả như sau: “Con động vật này không những có hai sừng dài trên đầu, mà còn có bốn chân dài với móng vuốt ở bụng, tại vị trí nó mắc cạn còn có một cái hố dài khoảng 17-18m, trên miệng hố còn hằn rõ móng vuốt của nó”. Bộ xương rồng sau đó bị chế thành tiêu bản, đặt ở viện bảo tàng của Trường cao cấp thủy sản trung học Doanh Khẩu, lúc đó là thời kỳ Nhật Bản thống trị Trung Quốc, người Nhật sau khi biết tin đã chuyển bộ xương rồng đến Trường Xuân, sau đó chuyển về Nhật Bản. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, các nhà khảo cổ học, nhà văn hóa và các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều phán đoán và giả thuyết khác nhau về tính chân thực của sự kiện “rồng rơi ở Doanh Khẩu”, đến nay vẫn chưa có kết luận chính xác.

Đứng tại góc độ người tu luyện để xem xét sự kiện này, tôi thấy được rất nhiều chân tướng ở phía sau mà con người không được biết. Trong cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện: sự kiện “rồng rơi ở Doanh Khẩu” thực sự có thật, con rồng chết không rõ nguyên nhân này vốn là con trai thứ năm của Bột Hải Long Vương, phụng lệnh trấn thủ và hoàng lăng (lăng mộ của vua) nơi chôn giữ thân thể của hoàng đế Lý Trị triều Đường và lăng mộ nơi chôn quần áo và di vật của Võ Tắc Thiên. Con rồng này dài 20m, thân màu đen xám, mắt có màu nâu thẫm. Hoàng lăng vốn là nơi có âm khí rất mạnh nhưng lại xảy ra hiện tượng chỉ có khí dương mà không có khí âm, khiến cho nơi đây âm dương mất cân bằng, thời gian và không gian bên trong bị hỗn loạn lâu dài, khiến cho chân long trong khi trấn thủ hoàng lăng, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng này mà trở nên bứt rứt không yên, ma tính bộc phát. Nó nhiều lần vi phạm lệnh trời, tự ý rời khỏi vị trí, làm mưa làm gió tại vùng sông Vị Hà, gây hại cho dân chúng. Con ác long này đã dùng phép thuật làm vỡ đê dẫn đến lũ lụt, dân chúng hai bên bờ bị cuốn vào lòng sông trở thành thức ăn cho nó. Hơn 80 người dân đáng thương đã rơi vào miệng con ác long này. Hơn nữa, nó còn không ngừng sát hại những sinh vật có linh tính của thủy tộc, hấp thu năng lượng của chúng để gia tăng pháp lực, khống chế những người tu đạo có tâm địa bất chính thường sát sinh cúng tế cho nó.

Con ác long làm nhiều chuyện ác khiến trời cao nổi giận, Thiên Đế đã phái thiên binh thiên tướng xuống bắt nó nhốt vào thiên lao. Thế nhưng con ác long này quỷ kế đa đoan đã trốn khỏi thiên lao. Sau đó nó đến đảo Bồng Lai, dùng phép tàng hình đi vào một không gian khác tương ứng với đảo Bồng Lai, sau đó lại dùng pháp thuật tìm vị trí của lò luyện đan, lẻn vào phòng luyện đan của Thái Bạch Kim Tinh định trộm Bế Thủy kim đan. Loại đan này có thể giúp cho các sinh mệnh thủy tộc sống trên cạn thời gian dài mà không bị suy giảm pháp lực, vẫn có thể vận dụng thần thông bình thường. Con ác long đang định lấy cắp tiên đan thì bỗng nhiên Thái Bạch Kim Tinh xuất hiện trong phòng, con ác long kinh ngạc, lui lại vài bước, sợ hãi đứng nguyên tại chỗ. Thái Bạch Kim Tinh tay cầm phất trần, chỉ vào nó quát: “Đây là cấm địa luyện đan, không cho phép người khác ra vào, tội này thật đáng chém! Đã là rồng, phải biết phép tắc của trời đất, làm việc trái ý trời như vậy, đáng bị trời phạt, nể ngươi là rồng, ta tha người một con đường sống, đi mau đi”. Ác long hung dữ nói: “Ông chẳng qua chỉ là một người phàm tu luyện thành tiên, có tài đức gì mà tha mạng cho ta. Đợi đến khi ta lấy được tiên đan rồi sẽ đến lấy mạng ông”. Vừa dứt lời, Thái Bạch Kim Tinh liền làm phép đấu với ác long, đảo Bồng Lai lập tức mây đen cuồn cuộn, gió nổi ầm ầm. Sau một hồi chiến đấu, Thái Bạch Kim Tinh nghĩ rằng sinh mệnh của long tộc không thể tùy ý xử trí, phải giao lại cho thiên thượng quyết định. Thế nên dùng phép định thân trói ác long lại, trở về thiên giới xin ý chỉ định đoạt, Thiên Đế ở Dục Giới Thiên ban ông cho Đồ Long kiếm, hạ chỉ trảm ác long để giữ thiên cương (kỷ cương của trời).

Thái Bạch Kim Tinh có trong tay kiếm Đồ Long, lẽ ra có thể chém chết con ác long này, nhưng ông lại khởi tâm từ bi hy vọng nó có thể cải tà quy chính nên chưa lấy mạng nó, chỉ chém nó bị thương. Ác long bị thương chạy trốn, muốn quay về Bột Hải Long Cung, nhưng ác long tội lỗi tày trời đã làm trái với quy tắc của long tộc, trái với quy tắc của thần tiên, Bột Hải Long Vương từ lâu đã gạch tên nó ra khỏi gia phả của long tộc và cắt đứt mọi quan hệ. Ác long có nhà nhưng không thể về, không chốn dung thân, lại còn bị trọng thương, không bay được bao lâu thì sức cùng lực kiệt, rơi xuống vùng Doanh Khẩu. Tại bãi lau cách cửa sông Liêu 10 km, rất nhiều người dân địa phương đã tận mắt nhìn thấy con rồng này. Ác long nghỉ ngơi vài ngày, dần dần khỏe lại, pháp lực cũng phục hồi. Thế nhưng bản tính gian ác của nó vẫn vậy, chẳng những không hối cải mà còn muốn tìm Thái Bạch Kim Tinh báo thù. Con ác long đến đảo Bồng Lai lần nữa, Thái Bạch Kim Tinh biết nó sẽ đến nên đã đợi nó từ lâu, giao chiến với nó một lần nữa, Thái Bạch Kim Tinh vung kiếm Đồ Long chém vào cổ của nó, làm phép lấy long đan ra, ác long lập tức mất hết pháp lực, Thần Hộ pháp liền thu lấy hồn phách của nó, đưa xuống mười tám tầng địa ngục chịu hình phạt, đến nay vẫn còn bị giam giữ ở đó. Còn thân thể nó lại một lần nữa rơi xuống Doanh Khẩu. Đương nhiên việc người ta có thể tìm thấy bộ xương rồng có nguyên nhân là: Trời cao muốn nói với thế nhân rằng rồng và Thần thực sự tồn tại, con người cần phải kính trọng trời đất, tu tâm dưỡng tính, tuân theo nhân đạo, thiên lý. Sau này chính phủ Nhật bí mật chuyển bộ xương rồng về Nhật, bộ xương rồng được hoàng thất Nhật Bản cất giữ, bí mật thờ phụng trong chùa, không cho mọi người biết.

Trong cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện, long tộc có cảnh giới sinh mệnh cao thấp khác nhau, có thể phân chia thành ba cảnh giới: phàm long, thiên long và Thần long. Phàm long là rồng ở thế giới con người, sinh sống trong các sông, hồ, biển tại vùng đất của người da vàng, đó là vương các loài sinh vật sống dưới nước. Thiên long là rồng trong các tầng trời ở các không gian khác nhau trong tam giới, có nhiệm vụ hộ pháp hoặc làm mưa. Thần long sinh sống trong thế giới thiên quốc ở bên ngoài tam giới của người da vàng, đây cũng là cảnh giới tối cao trong long tộc. Rồng có bảy loại màu sắc là đen, trắng, đỏ, vàng, xanh lục, xanh lam, tím. Màu mắt giống với màu cơ thể, chỉ khác là màu mắt đậm hơn màu cơ thể một chút. Trong long tộc, hải long đực và cái có sự khác nhau về ngoại hình và độ dài thân thể. Thân hình của rồng có thể tùy ý biến lớn thu nhỏ. Hải long đực trưởng thành dài khoảng 70-80m, trên đầu có ba chùm râu dài, mỗi bên mũi có một chùm râu, dưới cằm có một chùm râu nữa. Vây trên lưng rồng nhô ra, rất to và sắc nhọn, vây ở đuôi lại dài và mềm mại, vuốt rồng to và sắc nhọn. Ánh mắt rực sáng, thân trước và sau trông rất oai phong lẫm liệt, có năng lượng cực mạnh chấn nhiếp đối phương.

Hải long cái thân dài khoảng 40-50m, chỉ có hai chùm râu tương đối ngắn ở hai bên mũi. Vây trên lưng nhô ra tạo thành vòng tròn, vây ở đuôi tương đối ngắn hơn, móng vuốt nhỏ hơn, ánh mắt bớt khí phách hơn, ấm áp và dịu dàng hơn. Một phân chi khác của long tộc là giao long, giao long thống trị những vùng nước ngọt như sông, hồ, đầm. Đây là một loài rồng được Thần tạo ra sống trong vùng nước ngọt, có ngoại hình khá giống với hải long, điểm khác biệt là trên đầu giao long chỉ có một chiếc sừng dài và vẩy ngắn hơn. Thân thể giao long có màu nhạt hơn, chỉ có ba loại màu sắc chủ yếu là trắng, xám và xanh lục nhạt. Chiều dài thân thể cũng ngắn hơn so với hải long, giao long đực dài 40-50m, giao long cái dài khoảng 30-40 mét. Hải long và giao long tuy là những loài sống ở các vùng nước khác nhau, nhưng đều có đầy đủ pháp lực thần thông của long tộc, cho nên đều có thể tự do đi lại giữa sông hồ và biển.

Phương thức sinh sản của rồng tại các cảnh giới khác nhau cũng khác nhau, phàm long thì đẻ trứng, mỗi lần đẻ từ 3 đến 5 quả trứng rồng. Phàm long tạo trứng trong khoảng 13 tháng, sau khi đẻ trứng xong cần ấp trứng trong 3 tháng. Thiên long vừa có thể đẻ trứng vừa có thể sinh con, mỗi lần sinh cách nhau trung bình khoảng 300 năm, lúc rồng mẹ sinh con, sẽ sinh ra một con rồng con bên ngoài được bao bọc bởi một lớp màng mỏng tựa như hình trứng, thân thể dài khoảng 150cm rộng 80cm. Rồng trong tam giới do cảnh giới khác nhau nên tuổi thọ cũng khác nhau, thậm chí là rất lớn. Phàm long trong tầng không gian này của chúng ta có tuổi thọ khoảng 1000 năm, Thiên long trong các tầng trời khác nhau trong tam giới thường có tuổi thọ từ 1500 đến 3000 năm, tầng thứ càng cao thì tuổi thọ càng dài. Thần long là rồng trong thế giới thiên quốc, ngoài phương thức sinh đẻ ra còn có thể sử dụng pháp lực thần thông để trực tiếp tạo ra rồng con. Quá trình tạo ra rồng con rất đặc biệt, thần long bố và thần long mẹ từ miệng nhả ra một chùm năng lượng kết hợp lại với nhau, hình thành một quả cầu năng lượng có đường kính khoảng 150cm. Khi năng lượng được gia cường, ở chính giữa quả cầu năng lượng dần dần xuất hiện một hình tượng ấu long, năng lượng tiếp tục được bổ sung, đến thời điểm chín muồi, rồng con sẽ từ trong quả cầu phá lớp màng chui ra ngoài, trở thành một chú rồng sơ sinh hình dáng hoạt bát, đáng yêu giống như trong phim hoạt hình vậy, điều thú vị là trong quá trình thần long bố và thần long mẹ nhả năng lượng, ai nhả ra năng lượng mạnh hơn thì tiểu long sẽ giống người đó hơn. Việc sinh con của long tộc cũng phải căn cứ vào thiên thời và thiên tượng, phải thuận thiên ý thì mới có thể sinh sôi được. Nhiều Thần thú trong thế giới của Thần đều sinh sôi theo cách này. Thời cổ đại có rất nhiều người tu luyện tầng thứ thấp, vì tâm sắc dục chưa bỏ mà không đắc chính quả phải đầu thai chuyển thế, có người tu luyện sẽ chuyển sinh thành rồng trong tam giới. Những người tu luyện chưa bỏ được tâm tật đố phần lớn sẽ chuyển sinh qua súc sinh đạo đầu thai thành rắn hoặc mãng xà. Bởi vì sinh ra không có tay chân nên thường bị các loài côn trùng có độc cắn mà không làm gì được, đó là lý do vì sao rắn có tính cách rất hung dữ. Tu luyện là cực kỳ nghiêm túc, bất cứ tâm chấp trước nào chưa bỏ cũng có thể khiến việc tu luyện lãng phí đổ sông đổ biển.

Rồng có ba nhiệm vụ chủ yếu: một là cai quản, duy trì trật tự dưới biển, sông hồ trong vùng đất của người da vàng, thanh trừ các sinh mệnh gồm cả các loài thủy quái gây họa loạn ảnh hưởng tới trật tự của biển, sông, hồ cùng các âm linh và các sinh mệnh phụ diện trên mặt đất và dưới mặt đất. Hai là phụ trách việc tạo mây làm mưa. Ba là hộ pháp, trấn thủ các hoàng lăng và hộ pháp, bảo vệ cho những người tu đạo trong tam giới. Ngày xuân phân hàng năm là thời điểm rồng bay lên trời, Long Vương và Giao Vương ở tầng thứ khác nhau sẽ bay đến thiên giới ở các tầng trời khác nhau trong tam giới để báo cáo, tổng kết các sự kiện lớn phát sinh trong khu vực họ quản lý và kết quả xử lý trong năm qua, rồi nhận sứ mệnh và nhiệm vụ mới mà thiên thượng giao phó trong năm mới. Còn ngày đông chí hàng năm là ngày mà long tộc sẽ đến các vùng nước sâu để chuẩn bị sinh sản. Năm này qua năm khác lặp lại như vậy.

Văn hóa long tộc vẫn luôn được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác qua các triều đại trong lịch sử văn minh Trung Hoa. Do ảnh hưởng văn hóa của các thiên quốc trong các thiên thể khác nhau tạo nên sự khác biệt rất lớn về năng lực và ngoại hình của rồng. Hình tượng của rồng mặt khác cũng phản ánh sự hưng suy của một triều đại, một quốc gia. Rồng thời Hán bốn chân khá nhỏ, có khi bốn chân rồng còn thu sát vào hai bên thân thể trong trạng thái thu mình, giống như một con rắn lớn, đặc điểm của rồng thời này là “đại đạo vô vi”. Rồng thời Đường bốn chân dài, cứng cáp, mạnh mẽ, miệng rồng mảnh mai, ngoại hình khôi ngô, uy vũ, đặc điểm của rồng thời này là “hùng bá thiên hạ”, từ hình ảnh của rồng có thể thấy được sự huy hoàng, phồn thịnh của thời Đại Đường khiến các nước phải kính nể. Rồng thời Tống có khí thế và hình tượng không oai phong như các triều đại trước, triều Tống tuy kinh tế phát triển nhưng lại bị ngoại tộc đe đọa xâm chiếm, lại xảy ra sự kiện hai cha con hoàng đế Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông bị nước Kim bắt cóc mà vong quốc, đây là sự thất bại hiếm có trong lịch sử. Rồng thời Tống có đặc điểm là “kháng long hối thiên”, các hoàng đế triều Tống đã làm rất nhiều việc trái với thiên ý, cuối cùng dẫn tới đại họa mất nước, dân chúng lầm than. Đặc điểm của rồng triều Minh là “nội liễm tứ phương”, sau khi hoàng đế triều Minh lên ngôi đã lấy của cải của các phú hào địa phương phân chia cho con cháu trong hoàng tộc, triều Minh thực thi các chính sách cưỡng đoạt nô dịch khiến cho bách tính thống khổ, người dân ngày đêm oán than, nạn binh đao nổi lên khắp nơi. Rồng triều Thanh có đặc điểm là “cự chỉ tứ phương”, trong thời kỳ thịnh thế của vua Khang Hy và Càn Long, quân Thanh chinh chiến khắp nơi, đánh đâu thắng đó, vào thời kỳ thịnh vượng nhất, lãnh thổ đất nước Trung Quốc rất rộng lớn, giặc ngoại bang không dám xâm phạm.

Thời cổ đại hoàng đế được gọi là thiên tử (con trời), tại sao lại gọi là Thiên tử? Hoàng quyền thiên thụ (quyền lực của vua là do trời ban), đứa con cưng biết thuận theo ý trời cai trị thiên hạ được gọi là thiên tử. Các bậc quân vương khai quốc của các triều đại, các vị vua chúa trong thời kỳ phục hưng đều là những vị đế vương được trời tuyển chọn, được trời phái tiên nhân và long tộc bảo hộ. Cho nên rất nhiều lăng mộ của các quân vương thời cổ đại đều có tiên nhân và long tộc hộ pháp bên trong để trông coi hoàng lăng. Lăng mộ nổi tiếng của Tần Thủy Hoàng nằm dưới chân núi Ly Sơn là một quần thể kiến trúc cung điện khổng lồ trong lòng đất, toàn bộ khu lăng mộ do hai bộ phận âm và dương tạo thành. Phần trên có năm tầng là dương, được xây dựng giống hình dạng kim tự tháp. Phần dưới có bốn tầng là âm, có kết cấu như hình dạng kim tự tháp ngược, giữa hai bộ phận của địa cung được ngăn cách bằng một lớp bùn đất dày, trong đó có lối đi bí mật thông giữa hai bộ phận. Địa cung nằm trong lòng đất này kéo dài sâu dưới lòng đất 295m, Tần Thủy Hoàng khi còn tại vị đã huy động 720.000 người dân lao dịch nặng nhọc suốt 30 năm mới hoàn thành xong công trình này.

Lăng mộ Tần Thủy Hoàng sở dĩ được đặt tại núi Ly Sơn là vì ở trung tâm của núi Ly Sơn có một cột sáng màu tím thông thẳng đến thiên đình, toàn bộ Ly Sơn được bao phủ bởi ánh sáng màu tím, đây là vùng đất long mạch địa linh nhân kiệt. Hoàng lăng lại tọa lạc ở vị trí long huyệt của núi Ly Sơn (Long huyệt theo khoa học hiện đại giải thích là vùng đất ở vị trí trung tâm của trường năng lượng từ trường). Trong lăng mộ của Tần Thủy Hoàng được đổ vào gần 100 tấn thủy ngân, tượng trưng cho biển, sông, hồ trong lãnh thổ đại Tần ở nhân gian được mô phỏng thu nhỏ với tỉ lệ như thật. Trong cung điện dưới mặt đất còn có 1800 bức tượng người bằng đất nung có kích thức như người thật, những tượng người đất nung này là binh lính triều Tần bị chôn sống cùng Tần Thủy Hoàng, lúc còn sống họ đã được cho uống đan dược đặc chế, trên thân họ có ghi lời chú pháp thuật đối ứng với cảnh giới thấp của Hồng Lam Đại Đạo. Đan dược và lời chú khiến cho vong linh hồn phách họ không tiêu tán và nhục thân của họ không bị hủy hoại. Họ ở trong thế giới cung điện dưới mặt đất với nhục thân bất hoại, làm âm binh trông coi hoàng lăng. Tần Thủy Hoàng khi còn sống đã thỉnh mời các đạo sĩ có pháp thuật sử dụng thuật âm dương ngũ hành, tương sinh tương khắc của Đạo gia để xây dựng hoàng lăng, trong mộ thất có rất nhiều cạm bẫy đan xen lẫn nhau, người thường không cách nào phá giải, nếu tiến vào mộ thất thì không thể sống sót quay ra. Để đề phòng trộm mộ, Tần Thủy Hoàng đã thỉnh mời các đạo sỹ dùng pháp thuật dự đoán các phương thức trộm mộ, từ đó thiết lập các loại cạm bẫy khác nhau để đề phòng. Trong lịch sử, hoàng lăng của Tần Thủy Hoàng đã bảy lần bị những kẻ trộm mộ phá hoại trên diện rộng nhưng kết quả đều thất bại. Hậu quả mà kẻ trộm mộ nhận phải rất thê thảm, có kẻ sau khi chết bị đánh xuống địa ngục; có kẻ bị âm binh trong hoàng lăng bắt hồn phách đi chịu cực hình, toàn thân bị đâm đầy đao kiếm, bị ném xuống sông thủy ngân, ngày đêm không ngừng chịu thống khổ giày vò cùng cực. Kẻ trộm mộ không chỉ tự bản thân chịu tội mà còn mang họa đến cho con cháu, âm phủ có quy định rất rõ ràng rằng những kẻ trộm mộ thì con cháu đời sau sẽ bị cắt giảm tương ứng các loại phúc phận như phúc, lộc, thọ, đời đời kiếp kiếp bị trừng phạt phải mắc bệnh hiểm nghèo hoặc đoản mệnh. Cái gọi là công tác khảo cổ khai quật lăng mộ, tuy được nhà nước cho phép thăm dò nhưng âm phủ vẫn định tội cho những nhà khảo cổ ngang với tội của những kẻ trộm mộ. Ở trên có đề cập đến lăng mộ chôn quần áo và di vật của Võ Tắc Thiên, vậy thân thể của Võ Tắc Thiên được an táng ở đâu? Thân thể của bà được an táng trong ngôi mộ rất rộng lớn nằm trong núi bắc Mang Sơn ở Lạc Dương. Khi còn sống bà đã chỉ định con cháu của gia tộc Võ Thị tu đạo đời đời bảo vệ hoàng lăng. Trong lịch sử, con cháu gia tộc Võ Thị đã nhiều lần thay tên đổi họ chỉ vì bảo vệ hoàng lăng được vẹn toàn, trải qua vô số kiếp nạn, lăng mộ đến nay vẫn còn nguyên không bị xâm phạm, thi thể của Võ Tắc Thiên vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, nét mặt như khi còn sống, thân thể không bị thối rữa.

Một nhiệm vụ khác của long tộc là làm mưa. Khi trời mưa, tôi thường nhìn thấy trong đám mây có Thần mưa điều khiển phối hợp với rồng làm mưa. Hải long phụ trách làm mưa trên mặt đất, còn giao long phụ trách làm mưa ở những khu vực gần các sông, hồ, đầm. Hơn nữa, hình tượng Thần mưa ở phương tây và phương đông có sự khác biệt rất lớn, Thần mưa ở phương tây có hình tượng nhân mã có cánh sau lưng. Văn hóa ở các thiên thể khác nhau sẽ tạo nên hình tượng sinh mệnh khác nhau cũng như các phương thức sinh tồn khác nhau. Nói đến làm mưa, tôi nhớ đến sự kiện hồ Bà Dương ở Trung Quốc bị hạn hán nặng vào năm 2011, hồ Bà Dương bị khô cạn là thiên ý, nguyên nhân là tại phía đông khu vực hồ Bà Dương có một đường thông nối với một xoáy nước ngầm có đường kính đến 400m, bình thường bị che phủ bởi san hô và bùn. Có một con thủy quái hình rắn thân dài 30m, trên thân đầy vảy đen, trên cái đầu có đến mười mấy con mắt, trên đỉnh đầu có rất nhiều gai sắc nhọn, miệng đầy răng nhọn. Thừa lúc giao vương sơ suất, nó đã từ xoáy nước ngầm chạy vào hồ Bà Dương, nó dùng pháp lực khống chế những kẻ ác trong vùng gây nguy hại cho con người, nó đã bức hại đến chết rất nhiều người tu luyện chính pháp (đệ tử Đại Pháp), tội không thể tha, máu của các đệ tử Đại Pháp bị bức hại đến chết thấm xuống đất rồi ngấm vào hệ thống mạch nước ngầm ở hồ Bà Dương.

Nhìn tại không gian khác, toàn bộ khu vực hồ Bà Dương bị máu của đệ tử Đại pháp “nhuộm đỏ”, thủy quái cuối cùng bị chính niệm của đệ tử Đại Pháp tại vùng này bài trừ. Thiên giới đã phái một con thanh long đến trấn thủ tại xoáy nước, phòng trừ lại có tà linh gây họa loạn thế gian. Thiên đình nổi giận vì người tu luyện tại vùng hồ Bà Dương bị bức hại đến chết nên đã giảm mực nước của hồ xuống chỉ còn 1/80 so với mực nước những năm cao nhất. Trấn thủ hồ Bà Dương là một con giao vương đực màu xám, nó biết rằng đại hạn ở hồ Bà Dương là do trời cao cảnh cáo, trách phạt, cần phải thuận theo ý trời, nên không được làm mưa ở khu vực bị khô hạn. Thủy phủ hồ Bà Dương có 3000 binh lính, thủy phủ được giao vương dùng pháp lực che chắn, không cho người thường nhìn thấy, người nào ngẫu nhiên nhìn thấy sẽ bị binh tướng của thủy phủ bắt lấy hồn phách giam giữ tại nhà tù của thủy phủ hoặc phải lao dịch tại thủy phủ vài năm vì tội dò xét thiên cơ, sau đó sẽ bị đưa tới âm phủ xét tội.

Trong thời đại được coi là khoa học kỹ thuật phát triển này, con người cho rằng bản thân mình hiểu biết rất nhiều về lịch sử trái đất, kỳ thực những gì họ biết chỉ là bề mặt nông cạn, rất nhiều chân tướng phía sau các hiện tượng tự nhiên thì khoa học thực chứng không có cách nào lý giải và nhìn thấy được. Tuy nhiên những con người và sự vật huyền bí, kỳ diệu đó lại thực sự tồn tại. Trong bài viết về long tộc này, tôi chỉ đề cập một cách khái quát về những sự thực đó, còn có rất nhiều chi tiết và nguyên do đằng sau về lai lịch của rồng thì do tính đặc thù của giai đoạn lịch sử hiện nay nên tôi không tiện nói ra. Ngày nay tại các đại dương xung quanh Trung Quốc đại lục và vùng Đông Nam Á đều có hải long trấn thủ, tại các sông, hồ, đầm của vùng đất Trung Hoa cũng đều có giao vương thủ hộ.

Lịch sử trái đất vô cùng lâu dài, sinh mệnh vô cùng phức tạp và đa đạng, Thần trước sau vẫn luôn là chủ sáng tạo và cai quản vạn vật trong trời đất.

Tác giả: Đạo Minh

[ChanhKien.org]

Xem tiếp : Phần 9

Xem tiếp: Phần 7

Lời dẫn:

Thuận theo tiến trình Chính Pháp không ngừng tiến đến không gian bề mặt và sự liên tục đề cao tâm tính, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, trí huệ và năng lực mà Đại Pháp cấp cho tôi cũng càng ngày càng mạnh. Đại Pháp cũng đã triển hiện những chân tướng tại các tầng vũ trụ khác nhau tương ứng với cảnh giới tu luyện của tôi, bao gồm cả những bí ẩn trong lịch sử của Trái đất, nay xin viết ra để các đồng tu cùng tham khảo.
Văn hóa thần truyền – truyền thuyết long tộc (loài rồng)

Rồng là loài Thần thú trong các thần thoại và truyền thuyết cổ đại của Trung Quốc và vùng Đông Nam Á, rồng tượng trưng cho điềm lành. Văn hóa về rồng cũng là một trong những nét văn hóa truyền thống tiêu biểu nhất của các dân tộc vùng Đông Nam Á và Trung Hoa, là một bộ phận cấu thành của văn hóa thần truyền, nó đã được truyền thừa hàng trăm nghìn năm nay trên vùng đất Thần Châu. Vậy thì loài Thần thú này là do con người tưởng tượng ra hay có thật? Từ xưa đến nay, trong sử sách các thời đại khác nhau và trong dân gian đều có những ghi chép về sự xuất hiện của rồng, thực thực giả giả, vàng thau lẫn lộn, hôm nay đứng tại giác độ người tu luyện, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về tính chân thực của sự việc này.

Trong rất nhiều sự kiện liên quan đến rồng thì sự kiện “rồng rơi ở Doanh Khẩu” xảy ra vào thời cận đại chắc chắn là sự kiện đáng chú ý nhất. Mùa hè năm 1934, vùng Doanh Khẩu, Trung Quốc liên tục mưa lớn trong hơn 40 ngày, nước sông Liêu tăng vọt, khiến cho bờ phía bắc sông Liêu biến thành một biển nước. Cá tôm chết nổi trên mặt nước, không khí bốc lên một mùi hôi thối khó chịu. Sau khi mưa lớn hết, người ta đã phát hiện ra một bộ xương rồng lớn tại bãi cỏ lau cách cửa sông Liêu 10km, tin tức về sự kiện “rồng rơi chết” này nhanh chóng lan truyền khắp toàn quốc, những người hiếu kỳ tại ba tỉnh đông bắc Trung Quốc nô nức bắt tầu hỏa đến Doanh Khẩu để được tận mắt quan sát bộ xương của rồng. Lúc đó “Thời báo Thịnh Kinh” là tờ báo đầu tiên cử phóng viên đến tận nơi tìm hiểu. Ngày 12/8/1934, trong ấn bản đặc biệt của “Thời báo Thịnh Kinh” đã đăng bài viết kèm theo hình ảnh chụp bộ xương rồng, bài báo miêu tả như sau: “Con động vật này không những có hai sừng dài trên đầu, mà còn có bốn chân dài với móng vuốt ở bụng, tại vị trí nó mắc cạn còn có một cái hố dài khoảng 17-18m, trên miệng hố còn hằn rõ móng vuốt của nó”. Bộ xương rồng sau đó bị chế thành tiêu bản, đặt ở viện bảo tàng của Trường cao cấp thủy sản trung học Doanh Khẩu, lúc đó là thời kỳ Nhật Bản thống trị Trung Quốc, người Nhật sau khi biết tin đã chuyển bộ xương rồng đến Trường Xuân, sau đó chuyển về Nhật Bản. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, các nhà khảo cổ học, nhà văn hóa và các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều phán đoán và giả thuyết khác nhau về tính chân thực của sự kiện “rồng rơi ở Doanh Khẩu”, đến nay vẫn chưa có kết luận chính xác.

Đứng tại góc độ người tu luyện để xem xét sự kiện này, tôi thấy được rất nhiều chân tướng ở phía sau mà con người không được biết. Trong cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện: sự kiện “rồng rơi ở Doanh Khẩu” thực sự có thật, con rồng chết không rõ nguyên nhân này vốn là con trai thứ năm của Bột Hải Long Vương, phụng lệnh trấn thủ và hoàng lăng (lăng mộ của vua) nơi chôn giữ thân thể của hoàng đế Lý Trị triều Đường và lăng mộ nơi chôn quần áo và di vật của Võ Tắc Thiên. Con rồng này dài 20m, thân màu đen xám, mắt có màu nâu thẫm. Hoàng lăng vốn là nơi có âm khí rất mạnh nhưng lại xảy ra hiện tượng chỉ có khí dương mà không có khí âm, khiến cho nơi đây âm dương mất cân bằng, thời gian và không gian bên trong bị hỗn loạn lâu dài, khiến cho chân long trong khi trấn thủ hoàng lăng, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng này mà trở nên bứt rứt không yên, ma tính bộc phát. Nó nhiều lần vi phạm lệnh trời, tự ý rời khỏi vị trí, làm mưa làm gió tại vùng sông Vị Hà, gây hại cho dân chúng. Con ác long này đã dùng phép thuật làm vỡ đê dẫn đến lũ lụt, dân chúng hai bên bờ bị cuốn vào lòng sông trở thành thức ăn cho nó. Hơn 80 người dân đáng thương đã rơi vào miệng con ác long này. Hơn nữa, nó còn không ngừng sát hại những sinh vật có linh tính của thủy tộc, hấp thu năng lượng của chúng để gia tăng pháp lực, khống chế những người tu đạo có tâm địa bất chính thường sát sinh cúng tế cho nó.

Con ác long làm nhiều chuyện ác khiến trời cao nổi giận, Thiên Đế đã phái thiên binh thiên tướng xuống bắt nó nhốt vào thiên lao. Thế nhưng con ác long này quỷ kế đa đoan đã trốn khỏi thiên lao. Sau đó nó đến đảo Bồng Lai, dùng phép tàng hình đi vào một không gian khác tương ứng với đảo Bồng Lai, sau đó lại dùng pháp thuật tìm vị trí của lò luyện đan, lẻn vào phòng luyện đan của Thái Bạch Kim Tinh định trộm Bế Thủy kim đan. Loại đan này có thể giúp cho các sinh mệnh thủy tộc sống trên cạn thời gian dài mà không bị suy giảm pháp lực, vẫn có thể vận dụng thần thông bình thường. Con ác long đang định lấy cắp tiên đan thì bỗng nhiên Thái Bạch Kim Tinh xuất hiện trong phòng, con ác long kinh ngạc, lui lại vài bước, sợ hãi đứng nguyên tại chỗ. Thái Bạch Kim Tinh tay cầm phất trần, chỉ vào nó quát: “Đây là cấm địa luyện đan, không cho phép người khác ra vào, tội này thật đáng chém! Đã là rồng, phải biết phép tắc của trời đất, làm việc trái ý trời như vậy, đáng bị trời phạt, nể ngươi là rồng, ta tha người một con đường sống, đi mau đi”. Ác long hung dữ nói: “Ông chẳng qua chỉ là một người phàm tu luyện thành tiên, có tài đức gì mà tha mạng cho ta. Đợi đến khi ta lấy được tiên đan rồi sẽ đến lấy mạng ông”. Vừa dứt lời, Thái Bạch Kim Tinh liền làm phép đấu với ác long, đảo Bồng Lai lập tức mây đen cuồn cuộn, gió nổi ầm ầm. Sau một hồi chiến đấu, Thái Bạch Kim Tinh nghĩ rằng sinh mệnh của long tộc không thể tùy ý xử trí, phải giao lại cho thiên thượng quyết định. Thế nên dùng phép định thân trói ác long lại, trở về thiên giới xin ý chỉ định đoạt, Thiên Đế ở Dục Giới Thiên ban ông cho Đồ Long kiếm, hạ chỉ trảm ác long để giữ thiên cương (kỷ cương của trời).

Thái Bạch Kim Tinh có trong tay kiếm Đồ Long, lẽ ra có thể chém chết con ác long này, nhưng ông lại khởi tâm từ bi hy vọng nó có thể cải tà quy chính nên chưa lấy mạng nó, chỉ chém nó bị thương. Ác long bị thương chạy trốn, muốn quay về Bột Hải Long Cung, nhưng ác long tội lỗi tày trời đã làm trái với quy tắc của long tộc, trái với quy tắc của thần tiên, Bột Hải Long Vương từ lâu đã gạch tên nó ra khỏi gia phả của long tộc và cắt đứt mọi quan hệ. Ác long có nhà nhưng không thể về, không chốn dung thân, lại còn bị trọng thương, không bay được bao lâu thì sức cùng lực kiệt, rơi xuống vùng Doanh Khẩu. Tại bãi lau cách cửa sông Liêu 10 km, rất nhiều người dân địa phương đã tận mắt nhìn thấy con rồng này. Ác long nghỉ ngơi vài ngày, dần dần khỏe lại, pháp lực cũng phục hồi. Thế nhưng bản tính gian ác của nó vẫn vậy, chẳng những không hối cải mà còn muốn tìm Thái Bạch Kim Tinh báo thù. Con ác long đến đảo Bồng Lai lần nữa, Thái Bạch Kim Tinh biết nó sẽ đến nên đã đợi nó từ lâu, giao chiến với nó một lần nữa, Thái Bạch Kim Tinh vung kiếm Đồ Long chém vào cổ của nó, làm phép lấy long đan ra, ác long lập tức mất hết pháp lực, Thần Hộ pháp liền thu lấy hồn phách của nó, đưa xuống mười tám tầng địa ngục chịu hình phạt, đến nay vẫn còn bị giam giữ ở đó. Còn thân thể nó lại một lần nữa rơi xuống Doanh Khẩu. Đương nhiên việc người ta có thể tìm thấy bộ xương rồng có nguyên nhân là: Trời cao muốn nói với thế nhân rằng rồng và Thần thực sự tồn tại, con người cần phải kính trọng trời đất, tu tâm dưỡng tính, tuân theo nhân đạo, thiên lý. Sau này chính phủ Nhật bí mật chuyển bộ xương rồng về Nhật, bộ xương rồng được hoàng thất Nhật Bản cất giữ, bí mật thờ phụng trong chùa, không cho mọi người biết.

Trong cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện, long tộc có cảnh giới sinh mệnh cao thấp khác nhau, có thể phân chia thành ba cảnh giới: phàm long, thiên long và Thần long. Phàm long là rồng ở thế giới con người, sinh sống trong các sông, hồ, biển tại vùng đất của người da vàng, đó là vương các loài sinh vật sống dưới nước. Thiên long là rồng trong các tầng trời ở các không gian khác nhau trong tam giới, có nhiệm vụ hộ pháp hoặc làm mưa. Thần long sinh sống trong thế giới thiên quốc ở bên ngoài tam giới của người da vàng, đây cũng là cảnh giới tối cao trong long tộc. Rồng có bảy loại màu sắc là đen, trắng, đỏ, vàng, xanh lục, xanh lam, tím. Màu mắt giống với màu cơ thể, chỉ khác là màu mắt đậm hơn màu cơ thể một chút. Trong long tộc, hải long đực và cái có sự khác nhau về ngoại hình và độ dài thân thể. Thân hình của rồng có thể tùy ý biến lớn thu nhỏ. Hải long đực trưởng thành dài khoảng 70-80m, trên đầu có ba chùm râu dài, mỗi bên mũi có một chùm râu, dưới cằm có một chùm râu nữa. Vây trên lưng rồng nhô ra, rất to và sắc nhọn, vây ở đuôi lại dài và mềm mại, vuốt rồng to và sắc nhọn. Ánh mắt rực sáng, thân trước và sau trông rất oai phong lẫm liệt, có năng lượng cực mạnh chấn nhiếp đối phương.

Hải long cái thân dài khoảng 40-50m, chỉ có hai chùm râu tương đối ngắn ở hai bên mũi. Vây trên lưng nhô ra tạo thành vòng tròn, vây ở đuôi tương đối ngắn hơn, móng vuốt nhỏ hơn, ánh mắt bớt khí phách hơn, ấm áp và dịu dàng hơn. Một phân chi khác của long tộc là giao long, giao long thống trị những vùng nước ngọt như sông, hồ, đầm. Đây là một loài rồng được Thần tạo ra sống trong vùng nước ngọt, có ngoại hình khá giống với hải long, điểm khác biệt là trên đầu giao long chỉ có một chiếc sừng dài và vẩy ngắn hơn. Thân thể giao long có màu nhạt hơn, chỉ có ba loại màu sắc chủ yếu là trắng, xám và xanh lục nhạt. Chiều dài thân thể cũng ngắn hơn so với hải long, giao long đực dài 40-50m, giao long cái dài khoảng 30-40 mét. Hải long và giao long tuy là những loài sống ở các vùng nước khác nhau, nhưng đều có đầy đủ pháp lực thần thông của long tộc, cho nên đều có thể tự do đi lại giữa sông hồ và biển.

Phương thức sinh sản của rồng tại các cảnh giới khác nhau cũng khác nhau, phàm long thì đẻ trứng, mỗi lần đẻ từ 3 đến 5 quả trứng rồng. Phàm long tạo trứng trong khoảng 13 tháng, sau khi đẻ trứng xong cần ấp trứng trong 3 tháng. Thiên long vừa có thể đẻ trứng vừa có thể sinh con, mỗi lần sinh cách nhau trung bình khoảng 300 năm, lúc rồng mẹ sinh con, sẽ sinh ra một con rồng con bên ngoài được bao bọc bởi một lớp màng mỏng tựa như hình trứng, thân thể dài khoảng 150cm rộng 80cm. Rồng trong tam giới do cảnh giới khác nhau nên tuổi thọ cũng khác nhau, thậm chí là rất lớn. Phàm long trong tầng không gian này của chúng ta có tuổi thọ khoảng 1000 năm, Thiên long trong các tầng trời khác nhau trong tam giới thường có tuổi thọ từ 1500 đến 3000 năm, tầng thứ càng cao thì tuổi thọ càng dài. Thần long là rồng trong thế giới thiên quốc, ngoài phương thức sinh đẻ ra còn có thể sử dụng pháp lực thần thông để trực tiếp tạo ra rồng con. Quá trình tạo ra rồng con rất đặc biệt, thần long bố và thần long mẹ từ miệng nhả ra một chùm năng lượng kết hợp lại với nhau, hình thành một quả cầu năng lượng có đường kính khoảng 150cm. Khi năng lượng được gia cường, ở chính giữa quả cầu năng lượng dần dần xuất hiện một hình tượng ấu long, năng lượng tiếp tục được bổ sung, đến thời điểm chín muồi, rồng con sẽ từ trong quả cầu phá lớp màng chui ra ngoài, trở thành một chú rồng sơ sinh hình dáng hoạt bát, đáng yêu giống như trong phim hoạt hình vậy, điều thú vị là trong quá trình thần long bố và thần long mẹ nhả năng lượng, ai nhả ra năng lượng mạnh hơn thì tiểu long sẽ giống người đó hơn. Việc sinh con của long tộc cũng phải căn cứ vào thiên thời và thiên tượng, phải thuận thiên ý thì mới có thể sinh sôi được. Nhiều Thần thú trong thế giới của Thần đều sinh sôi theo cách này. Thời cổ đại có rất nhiều người tu luyện tầng thứ thấp, vì tâm sắc dục chưa bỏ mà không đắc chính quả phải đầu thai chuyển thế, có người tu luyện sẽ chuyển sinh thành rồng trong tam giới. Những người tu luyện chưa bỏ được tâm tật đố phần lớn sẽ chuyển sinh qua súc sinh đạo đầu thai thành rắn hoặc mãng xà. Bởi vì sinh ra không có tay chân nên thường bị các loài côn trùng có độc cắn mà không làm gì được, đó là lý do vì sao rắn có tính cách rất hung dữ. Tu luyện là cực kỳ nghiêm túc, bất cứ tâm chấp trước nào chưa bỏ cũng có thể khiến việc tu luyện lãng phí đổ sông đổ biển.

Rồng có ba nhiệm vụ chủ yếu: một là cai quản, duy trì trật tự dưới biển, sông hồ trong vùng đất của người da vàng, thanh trừ các sinh mệnh gồm cả các loài thủy quái gây họa loạn ảnh hưởng tới trật tự của biển, sông, hồ cùng các âm linh và các sinh mệnh phụ diện trên mặt đất và dưới mặt đất. Hai là phụ trách việc tạo mây làm mưa. Ba là hộ pháp, trấn thủ các hoàng lăng và hộ pháp, bảo vệ cho những người tu đạo trong tam giới. Ngày xuân phân hàng năm là thời điểm rồng bay lên trời, Long Vương và Giao Vương ở tầng thứ khác nhau sẽ bay đến thiên giới ở các tầng trời khác nhau trong tam giới để báo cáo, tổng kết các sự kiện lớn phát sinh trong khu vực họ quản lý và kết quả xử lý trong năm qua, rồi nhận sứ mệnh và nhiệm vụ mới mà thiên thượng giao phó trong năm mới. Còn ngày đông chí hàng năm là ngày mà long tộc sẽ đến các vùng nước sâu để chuẩn bị sinh sản. Năm này qua năm khác lặp lại như vậy.

Văn hóa long tộc vẫn luôn được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác qua các triều đại trong lịch sử văn minh Trung Hoa. Do ảnh hưởng văn hóa của các thiên quốc trong các thiên thể khác nhau tạo nên sự khác biệt rất lớn về năng lực và ngoại hình của rồng. Hình tượng của rồng mặt khác cũng phản ánh sự hưng suy của một triều đại, một quốc gia. Rồng thời Hán bốn chân khá nhỏ, có khi bốn chân rồng còn thu sát vào hai bên thân thể trong trạng thái thu mình, giống như một con rắn lớn, đặc điểm của rồng thời này là “đại đạo vô vi”. Rồng thời Đường bốn chân dài, cứng cáp, mạnh mẽ, miệng rồng mảnh mai, ngoại hình khôi ngô, uy vũ, đặc điểm của rồng thời này là “hùng bá thiên hạ”, từ hình ảnh của rồng có thể thấy được sự huy hoàng, phồn thịnh của thời Đại Đường khiến các nước phải kính nể. Rồng thời Tống có khí thế và hình tượng không oai phong như các triều đại trước, triều Tống tuy kinh tế phát triển nhưng lại bị ngoại tộc đe đọa xâm chiếm, lại xảy ra sự kiện hai cha con hoàng đế Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông bị nước Kim bắt cóc mà vong quốc, đây là sự thất bại hiếm có trong lịch sử. Rồng thời Tống có đặc điểm là “kháng long hối thiên”, các hoàng đế triều Tống đã làm rất nhiều việc trái với thiên ý, cuối cùng dẫn tới đại họa mất nước, dân chúng lầm than. Đặc điểm của rồng triều Minh là “nội liễm tứ phương”, sau khi hoàng đế triều Minh lên ngôi đã lấy của cải của các phú hào địa phương phân chia cho con cháu trong hoàng tộc, triều Minh thực thi các chính sách cưỡng đoạt nô dịch khiến cho bách tính thống khổ, người dân ngày đêm oán than, nạn binh đao nổi lên khắp nơi. Rồng triều Thanh có đặc điểm là “cự chỉ tứ phương”, trong thời kỳ thịnh thế của vua Khang Hy và Càn Long, quân Thanh chinh chiến khắp nơi, đánh đâu thắng đó, vào thời kỳ thịnh vượng nhất, lãnh thổ đất nước Trung Quốc rất rộng lớn, giặc ngoại bang không dám xâm phạm.

Thời cổ đại hoàng đế được gọi là thiên tử (con trời), tại sao lại gọi là Thiên tử? Hoàng quyền thiên thụ (quyền lực của vua là do trời ban), đứa con cưng biết thuận theo ý trời cai trị thiên hạ được gọi là thiên tử. Các bậc quân vương khai quốc của các triều đại, các vị vua chúa trong thời kỳ phục hưng đều là những vị đế vương được trời tuyển chọn, được trời phái tiên nhân và long tộc bảo hộ. Cho nên rất nhiều lăng mộ của các quân vương thời cổ đại đều có tiên nhân và long tộc hộ pháp bên trong để trông coi hoàng lăng. Lăng mộ nổi tiếng của Tần Thủy Hoàng nằm dưới chân núi Ly Sơn là một quần thể kiến trúc cung điện khổng lồ trong lòng đất, toàn bộ khu lăng mộ do hai bộ phận âm và dương tạo thành. Phần trên có năm tầng là dương, được xây dựng giống hình dạng kim tự tháp. Phần dưới có bốn tầng là âm, có kết cấu như hình dạng kim tự tháp ngược, giữa hai bộ phận của địa cung được ngăn cách bằng một lớp bùn đất dày, trong đó có lối đi bí mật thông giữa hai bộ phận. Địa cung nằm trong lòng đất này kéo dài sâu dưới lòng đất 295m, Tần Thủy Hoàng khi còn tại vị đã huy động 720.000 người dân lao dịch nặng nhọc suốt 30 năm mới hoàn thành xong công trình này.

Lăng mộ Tần Thủy Hoàng sở dĩ được đặt tại núi Ly Sơn là vì ở trung tâm của núi Ly Sơn có một cột sáng màu tím thông thẳng đến thiên đình, toàn bộ Ly Sơn được bao phủ bởi ánh sáng màu tím, đây là vùng đất long mạch địa linh nhân kiệt. Hoàng lăng lại tọa lạc ở vị trí long huyệt của núi Ly Sơn (Long huyệt theo khoa học hiện đại giải thích là vùng đất ở vị trí trung tâm của trường năng lượng từ trường). Trong lăng mộ của Tần Thủy Hoàng được đổ vào gần 100 tấn thủy ngân, tượng trưng cho biển, sông, hồ trong lãnh thổ đại Tần ở nhân gian được mô phỏng thu nhỏ với tỉ lệ như thật. Trong cung điện dưới mặt đất còn có 1800 bức tượng người bằng đất nung có kích thức như người thật, những tượng người đất nung này là binh lính triều Tần bị chôn sống cùng Tần Thủy Hoàng, lúc còn sống họ đã được cho uống đan dược đặc chế, trên thân họ có ghi lời chú pháp thuật đối ứng với cảnh giới thấp của Hồng Lam Đại Đạo. Đan dược và lời chú khiến cho vong linh hồn phách họ không tiêu tán và nhục thân của họ không bị hủy hoại. Họ ở trong thế giới cung điện dưới mặt đất với nhục thân bất hoại, làm âm binh trông coi hoàng lăng. Tần Thủy Hoàng khi còn sống đã thỉnh mời các đạo sĩ có pháp thuật sử dụng thuật âm dương ngũ hành, tương sinh tương khắc của Đạo gia để xây dựng hoàng lăng, trong mộ thất có rất nhiều cạm bẫy đan xen lẫn nhau, người thường không cách nào phá giải, nếu tiến vào mộ thất thì không thể sống sót quay ra. Để đề phòng trộm mộ, Tần Thủy Hoàng đã thỉnh mời các đạo sỹ dùng pháp thuật dự đoán các phương thức trộm mộ, từ đó thiết lập các loại cạm bẫy khác nhau để đề phòng. Trong lịch sử, hoàng lăng của Tần Thủy Hoàng đã bảy lần bị những kẻ trộm mộ phá hoại trên diện rộng nhưng kết quả đều thất bại. Hậu quả mà kẻ trộm mộ nhận phải rất thê thảm, có kẻ sau khi chết bị đánh xuống địa ngục; có kẻ bị âm binh trong hoàng lăng bắt hồn phách đi chịu cực hình, toàn thân bị đâm đầy đao kiếm, bị ném xuống sông thủy ngân, ngày đêm không ngừng chịu thống khổ giày vò cùng cực. Kẻ trộm mộ không chỉ tự bản thân chịu tội mà còn mang họa đến cho con cháu, âm phủ có quy định rất rõ ràng rằng những kẻ trộm mộ thì con cháu đời sau sẽ bị cắt giảm tương ứng các loại phúc phận như phúc, lộc, thọ, đời đời kiếp kiếp bị trừng phạt phải mắc bệnh hiểm nghèo hoặc đoản mệnh. Cái gọi là công tác khảo cổ khai quật lăng mộ, tuy được nhà nước cho phép thăm dò nhưng âm phủ vẫn định tội cho những nhà khảo cổ ngang với tội của những kẻ trộm mộ. Ở trên có đề cập đến lăng mộ chôn quần áo và di vật của Võ Tắc Thiên, vậy thân thể của Võ Tắc Thiên được an táng ở đâu? Thân thể của bà được an táng trong ngôi mộ rất rộng lớn nằm trong núi bắc Mang Sơn ở Lạc Dương. Khi còn sống bà đã chỉ định con cháu của gia tộc Võ Thị tu đạo đời đời bảo vệ hoàng lăng. Trong lịch sử, con cháu gia tộc Võ Thị đã nhiều lần thay tên đổi họ chỉ vì bảo vệ hoàng lăng được vẹn toàn, trải qua vô số kiếp nạn, lăng mộ đến nay vẫn còn nguyên không bị xâm phạm, thi thể của Võ Tắc Thiên vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, nét mặt như khi còn sống, thân thể không bị thối rữa.

Một nhiệm vụ khác của long tộc là làm mưa. Khi trời mưa, tôi thường nhìn thấy trong đám mây có Thần mưa điều khiển phối hợp với rồng làm mưa. Hải long phụ trách làm mưa trên mặt đất, còn giao long phụ trách làm mưa ở những khu vực gần các sông, hồ, đầm. Hơn nữa, hình tượng Thần mưa ở phương tây và phương đông có sự khác biệt rất lớn, Thần mưa ở phương tây có hình tượng nhân mã có cánh sau lưng. Văn hóa ở các thiên thể khác nhau sẽ tạo nên hình tượng sinh mệnh khác nhau cũng như các phương thức sinh tồn khác nhau. Nói đến làm mưa, tôi nhớ đến sự kiện hồ Bà Dương ở Trung Quốc bị hạn hán nặng vào năm 2011, hồ Bà Dương bị khô cạn là thiên ý, nguyên nhân là tại phía đông khu vực hồ Bà Dương có một đường thông nối với một xoáy nước ngầm có đường kính đến 400m, bình thường bị che phủ bởi san hô và bùn. Có một con thủy quái hình rắn thân dài 30m, trên thân đầy vảy đen, trên cái đầu có đến mười mấy con mắt, trên đỉnh đầu có rất nhiều gai sắc nhọn, miệng đầy răng nhọn. Thừa lúc giao vương sơ suất, nó đã từ xoáy nước ngầm chạy vào hồ Bà Dương, nó dùng pháp lực khống chế những kẻ ác trong vùng gây nguy hại cho con người, nó đã bức hại đến chết rất nhiều người tu luyện chính pháp (đệ tử Đại Pháp), tội không thể tha, máu của các đệ tử Đại Pháp bị bức hại đến chết thấm xuống đất rồi ngấm vào hệ thống mạch nước ngầm ở hồ Bà Dương.

Nhìn tại không gian khác, toàn bộ khu vực hồ Bà Dương bị máu của đệ tử Đại pháp “nhuộm đỏ”, thủy quái cuối cùng bị chính niệm của đệ tử Đại Pháp tại vùng này bài trừ. Thiên giới đã phái một con thanh long đến trấn thủ tại xoáy nước, phòng trừ lại có tà linh gây họa loạn thế gian. Thiên đình nổi giận vì người tu luyện tại vùng hồ Bà Dương bị bức hại đến chết nên đã giảm mực nước của hồ xuống chỉ còn 1/80 so với mực nước những năm cao nhất. Trấn thủ hồ Bà Dương là một con giao vương đực màu xám, nó biết rằng đại hạn ở hồ Bà Dương là do trời cao cảnh cáo, trách phạt, cần phải thuận theo ý trời, nên không được làm mưa ở khu vực bị khô hạn. Thủy phủ hồ Bà Dương có 3000 binh lính, thủy phủ được giao vương dùng pháp lực che chắn, không cho người thường nhìn thấy, người nào ngẫu nhiên nhìn thấy sẽ bị binh tướng của thủy phủ bắt lấy hồn phách giam giữ tại nhà tù của thủy phủ hoặc phải lao dịch tại thủy phủ vài năm vì tội dò xét thiên cơ, sau đó sẽ bị đưa tới âm phủ xét tội.

Trong thời đại được coi là khoa học kỹ thuật phát triển này, con người cho rằng bản thân mình hiểu biết rất nhiều về lịch sử trái đất, kỳ thực những gì họ biết chỉ là bề mặt nông cạn, rất nhiều chân tướng phía sau các hiện tượng tự nhiên thì khoa học thực chứng không có cách nào lý giải và nhìn thấy được. Tuy nhiên những con người và sự vật huyền bí, kỳ diệu đó lại thực sự tồn tại. Trong bài viết về long tộc này, tôi chỉ đề cập một cách khái quát về những sự thực đó, còn có rất nhiều chi tiết và nguyên do đằng sau về lai lịch của rồng thì do tính đặc thù của giai đoạn lịch sử hiện nay nên tôi không tiện nói ra. Ngày nay tại các đại dương xung quanh Trung Quốc đại lục và vùng Đông Nam Á đều có hải long trấn thủ, tại các sông, hồ, đầm của vùng đất Trung Hoa cũng đều có giao vương thủ hộ.

Lịch sử trái đất vô cùng lâu dài, sinh mệnh vô cùng phức tạp và đa đạng, Thần trước sau vẫn luôn là chủ sáng tạo và cai quản vạn vật trong trời đất.

Tác giả: Đạo Minh

[ChanhKien.org]

Xem tiếp : Phần 9

Hits: 16

Bài nên xem:

Khi bạn hiểu sai về Pháp Luân Công, thì sẽ dẫn đến việc gì?

Đơn giản là - hiểu sai thì sẽ có ứng xử hành động sai, ứng xử hành động sai thì kết quả không tốt cho mình [và kể cả người thân], vì người ta nghĩ gì làm gì thì đều sẽ phát sinh một kết quả về sau, đó là quy luật. Cụ thể việc này ra sao? Các bạn đọc ở vế sau bài viết, chúng tôi cần nói một chút về bối cảnh và đầu đuôi sự việc các bạn mới có thể hiểu hết.

Học viên Pháp Luân Công Việt Nam luyện công (Nguồn ảnh: Internet)

Có một điều mà rất nhiều người vướng phải, ấy là cho rằng Pháp Luân Công là tà đạo, làm chính trị. “Chẳng đúng thế sao, đài báo ti vi, trên mạng trên facebook họ nói đầy đấy thôi, đài báo nhà nước cũng nói đấy thôi”. Bạn nói thể chẳng phải rất ư là định kiến theo số đông và bất công sao? Chúng ta ai cũng nói câu tôi nghe gì cũng là “nghe bằng hai tai” hoặc “không biết thì cũng không nên nghe này kia mà nói lung tung”, nhưng bạn đang dùng hai tai mà nghe mà tin cùng một luồng thông tin nói xấu, trang web và sách của Pháp Luân Công công khai trên mạng, muốn biết tốt xấu thì xem trực tiếp nghe trực tiếp những gì họ học họ làm thì sẽ rõ hết chứ đâu cần nghe qua ai. Là “tà đạo” thì giáo lý việc làm của nó nhất định phải liên quan đến điều ÁC. Là “làm chính trị” thì nó nhất định phải tranh quyền tranh chức hay cái ghế của ai đó, hay là liên quan đảng phái đấu đá,vv… Pháp Luân Công không có những điều này, bạn có thể kiểm chứng bằng việc tìm hiểu những điều họ học tại trang web chính thống của Pháp Luân Công [https://vi.falundafa.org/] có chữ nào là dạy làm ác, có chữ nào là kêu đi làm chính trị đảng phái. Đôi khi chúng ta sống một đời cùng vợ chồng, cha mẹ, thân thiết như vậy nhưng cũng không hiểu hết họ, huống hồ một tình huống mà chúng ta ở ngoài  và nghe qua như Pháp Luân Công.

Nhưng đài báo ti vi nhà nước cũng nói như vậy” - đài báo ti vi nhà nước cũng rất nhiều kênh, có kênh nói có kênh không, đài báo ti vi cũng là người có hiểu đúng và hiểu sai, có người đưa tin sự thật và có người đưa tin theo “ý đồ” của cá nhân người viết, việc ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công đã cách đây 23 năm [1999], bây giờ họ viết bài cũng chỉ dựa vào tài liệu lượm lặt trên mạng hoặc bên nhà nước TQ đưa qua, đây chẳng khác nào là “lấy “sự thật” được nói ra từ miệng tên giết người cưỡng bức rồi về đưa tin về vụ án mà nó gây ra”, và sự thật mà tên giết người đó nói là nó có lý do hợp lý để giết người và cưỡng bức - trớ trêu thay đây là chỗ mà nhiều người tin theo.

Quay ngược thời gian nói về việc này, HitsLe khi diệt chủng  6 triệu người Do Thái hắn ta cũng làm công tác tuyên truyền, nhiều người dân Đức lúc bấy giờ cũng ủng hộ và đồng quan điểm với nó, nghe nói hắn cũng cho rằng người Do Thái muốn lật đổ và “làm chính trị”. Cho đến hôm nay nhân loại nhìn nhận hắn là kẻ diệt chủng tàn ác và là điển hình của tội ác với nhân loại.

Thời Kmer đỏ thổng trị Campuchia đã gây ra cái chết của ước chừng khoảng 1,4 triệu đến 2,2 triệu người, mà lúc đó tổng số dân của Campuchia chỉ khoảng hơn 7 triệu người, nó đương nhiên cho đài báo tuyên truyền rằng những người bị giết là thành phần "phản đảng, làm chính trị, phản cách mạng" (Khmer đỏ cũng là ĐCS và được Trung Cộng tiếp tay), một kiểu đại loại như thế. Nhân dân Campuchia thời đó cũng nhiều người đồng quan điểm và tin theo tuyên truyền của Pol Pot. Và giờ đây cả thế giới đã phán xử, nhân loại cũng biết về tội ác diệt chủng của nó.

ĐCSTQ đàn áp gia đình học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc (Nguồn ảnh: Chánh Kiến Net)

So sánh về mức độ tàn ác thì ĐCSTQ còn nhỉnh hơn HitLe và PolPot, lý do gì khiến bạn tin vào vu khống của nó về Pháp Luân Công rồi cho rằng Pháp Luân Công là “tà đạo, làm chính trị,vv…” trong khi cha ông của người Việt nhiều người đã chết nơi biển đảo hay biên giới vì đạn dược của Trung Cộng,  rất có thể sẽ rơi vào tình huống của người dân thế giới thời bấy giờ tin và nghe theo tuyên truyền của HitLe hay PolPot trước khi tội ác của nó chưa bị phơi bày.

Lại nói tôi tin vào đài báo của nhà nước Việt Nam chứ chẳng tin vào đài báo ĐCSTQ, đúng rồi, nhiều đài báo láng giềng của Đức cũng đưa tin theo tuyên truyền của HitLe và người dân láng giềng thì tin vào tuyên truyền của nhà nước họ, gián tiếp tin theo thôi.

Dẫn ra các ví dụ trên để nói về cách chúng ta tiếp nhận thông tin đài báo, phải chăng chúng ta có lần đã tự lừa mình theo cách trên khi phán đoán nhận định về một ai đó?

Hiểu về Pháp Luân Công thế nào cho đúng? 

Pháp Luân Công là một môn tu thuộc trường phái Phật, chiểu theo nguyên lý Chân Thiện Nhẫn để tu tâm và hành xử hàng ngày, kèm thêm 5 bài tập nhẹ nhàng giúp nâng cao sức khỏe. Người tu luyện Pháp Luân Công đa phần đạt được lợi ích to lớn về đạo đức và sức khỏe, điều này tạo thành sức hút mạnh mẽ khi vào 1999 đã có 100 triệu người Trung Quốc theo học (1/10 dân số TQ lúc bấy giờ).

Cảnh luyện công của các học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc trước 20 tháng 7 năm 1999 (Ngồn ảnh: Minh Huệ Net)

Việc Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công chủ yếu là vì sự ganh tỵ: 100 triệu là lớn hơn số đảng viên ĐCSTQ thời bấy giờ [70 triệu], nó không chịu được việc có một đoàn thể nào lớn hơn nó. Nó cũng không chịu được khi sách của Pháp Luân Công (cuốn Chuyển Pháp Luân) thì người dân TQ người người tìm đọc, chuyền tay nhau đọc trong khi sách của nó (các sách về đảng) thì phải cưỡng chế nhồi nhét vào đầu người dân. Nó không chịu được vì người học Pháp Luân Công tin Thần kính Phật trong khi nó muốn lòng kính trọng Thần của người dân không được lớn hơn việc tôn thờ nó, nó muốn người dân coi đảng là nhất. Nó ganh tỵ vì người tập Pháp Luân Công lúc đó rất nhiều người tự nguyện làm việc tốt trong khi đảng viên của nó thì thỉnh thoảng mới có một tấm gương người tốt điển hình. Nó [Giang Trạch Dân - tổng bí thư ĐCSTQ lúc bấy giờ] không chịu được việc vợ, cũng như cấp dưới của nó hết lời ca ngợi đức độ của vị Sư phụ Pháp Luân Công, không chịu được việc người dân TQ kính trọng vị thầy của Pháp Luân Công từ tấm lòng trong khi nó là một lãnh tụ lại không có được điều này.

Tất cả điều trên khiến Giang Trạch Dân và ĐCSTQ phát động đàn áp Pháp Luân Công. Có người không thể nào tin được việc một lãnh tụ cấp cao lại đem lòng ganh tỵ và nghe phi lý, chủ yếu là vì họ vốn quan niệm rằng cấp cao là có đạo đức tư cách tốt, trong khi lịch sử nhân loại cho thấy ngay rất nhiều bậc vua chúa gọi là “hôn quân vô đạo”, lãnh đạo cấp cao nhưng nó cũng là người  không phải Thần Phật, là người mà ở vị trí nào mà không giữ được đạo đức thì cũng hành xử tệ thôi, chẳng phải thời hiện nay chúng ta đã chứng kiến rất nhiều tham quan ghế to chức to cũng làm điều xằng bậy đấy sao, núi thì to nhưng không phải không có rắn độc. Việc Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công đã có nhiều quốc gia lên án và truy tố về tội ác này.

Thế giới lên án tội ác của Giang Trạch Dân. Ông ta sẽ bị trừng phạt vì đã đã tiến hành bức hại Pháp Luân Công (Nguồn ảnh: Tinh Hoa)

Khi bạn hiểu sai về Pháp Luân Công, thì sẽ dẫn đến việc gì? Hiểu sai thì sẽ phát sinh ác cảm hoặc thù ghét phỉ báng, hoặc tham gia trực tiếp vào việc phá họ. Nhưng Pháp Luân Công là Phật Pháp, ác cảm hay thù ghét phỉ báng họ cũng chính là đang ác cảm thù ghét phỉ báng đối với Phật Pháp, ứng xử với Phật Pháp cũng tương đương với đang ứng xử với vị Thần vị Phật hoặc đệ tử của họ. Người có đức tin vào Thần Phật ai cũng biết rằng, khi một người thù ghét, xúc phạm, phỉ báng Thần Phật, Phật Pháp [dù chỉ là ý nghĩ trong tâm] thì sẽ tạo thành tội nghiệp to lớn và chịu báo ứng bi thảm vì tội nghiệp này. Có một điều dễ khiến người sai lầm ấy chính là họ không tin vào báo ứng và cho rằng chuyện viển vông mê tín, nói rằng tôi chả thấy ai bị báo ứng cả. Vì sự thật chẳng báo chí hay nhà nước nào đi thống kê “nhân quả báo ứng cả”, và đương sự bị báo ứng lúc đó họ chẳng thể đội mồ dậy nói cho chúng ta nghe, những chuyện nghe được từ dân gian hay người truyền lại thì lại cho là mê tín viển vông. Người Việt nói: “có kiêng có lành”, kính trọng Thần Phật hay tín ngưỡng chân chính thì chẳng mất gì cả, đương nhiên lành mà không có hại, còn việc xúc phạm một tín ngưỡng hoặc đoàn thể tín ngưỡng khác chỉ vì những điều của họ khác với nhận thức của bạn lại là việc rất không nên, có hại, bởi vì họ không tổn gì bạn cả. Nếu mà vô tri hùa theo đám ông mà ứng xử sai với những điều liên quan đến Thần Phật, Phật Pháp, hay cá nhân đoàn thể tín ngưỡng thì lại càng không nên.

Chúng tôi vừa nói cho bạn biết sự thật về Pháp Luân Công và lý do vì sao bạn cần hiểu đúng về nó, mục đích không phải vì để bạn học Pháp Luân Công, mà vì đây là Phật Pháp. Chúng ta không nên thù hận Phật Pháp, nếu không sẽ mang tai họa đến cho bản thân. Và khi nói về tội ác ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công, thì đương nhiên cần chỉ đích danh kẻ gây tội ác là ai. Chỉ đích danh ĐCSTQ thì phải có chữ “đảng”, có chữ “đảng” trong trường hợp này nào có liên quan gì đến chính trị. Đây cũng chính là điểm mà nhiều người vin vào để nói rằng Pháp Luân Công làm chính trị, chỉ vì có nhắc đến một chữ “đảng”.

Hiểu được rằng Pháp Luân Đại Pháp - Chân Thiện Nhẫn là tốt thì sẽ có được phúc báo và bình an - may mắn (Nguồn ảnh: Pinterest)

Khi bạn hiểu đúng, bạn sẽ không thù ghét ác cảm với Pháp Luân Công, không phỉ báng Phật Pháp, không hùa theo tuyên truyền vu khống của Trung Cộng, sẽ không phải chịu những gì liên quan đến báo ứng đối với việc này. Hàng trăm triệu học viên Pháp Luân Công thường nói điều này, không hùa theo Trung Cộng trong tội ác mà nó làm đối với Pháp Luân Công thì sẽ không bị họa lây khi trời diệt nó. Hiểu được rằng Pháp Luân Đại Pháp - Chân Thiện Nhẫn là tốt thì sẽ có được phúc báo và bình an - may mắn. Chúng tôi chính mong muốn điều này cho bạn và người thân của bạn! Công đạo trong lòng tự bạn soi xét có thể hiểu được!

Tác giả: Pháp đồ

Nếu quý độc giả có câu chuyện hay, bức ảnh đẹp, lời thơ sâu lắng... có ý nguyện cùng chúng tôi gìn giữ những giá trị đạo đức truyền thống. Xin vui lòng gửi về hòm thư: admin@quayvetruyenthong.org

Có thể bạn quan tâm:

BÀI VIẾT XEM NHIỀU