Thứ Tư, 27 Tháng Chín 2023

Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya

Tác giả: Thiện Dũng

Mỗi sinh mệnh trên thế gian đều có đặc điểm, đặc tính riêng, giống như mỗi chiếc lá trên cây cổ thụ tươi tốt, tuy hình dạng giống nhau nhưng không thể tìm thấy hai chiếc lá hoàn toàn giống nhau. Ngày nay, mỗi đệ tử Chính Pháp tu luyện nơi thế tục đều có hoàn cảnh tu luyện và trạng thái tu luyện khác nhau, đều chứa đựng nội hàm lịch sử thâm sâu. Trong quá trình luân hồi lâu dài trong tam giới, lịch sử sinh mệnh của mỗi đệ tử Đại Pháp đều nhằm đặt định ra cảnh giới và tố chất mà mỗi đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp cần phải có.

Cách đây khoảng 40.000 năm, người Maya sinh sống và phát triển trên vùng đất rộng lớn, phì nhiêu ở lục địa Nam Mỹ, họ đã xây dựng lên một đế quốc hùng mạnh – đế quốc Maya. Đế quốc Maya là quốc gia nửa phong kiến nửa nô lệ, quyền lực tập trung ở trung ương, có dân số khoảng 45 triệu người. Tín ngưỡng của phần lớn dân chúng giống với tín ngưỡng của người da vàng ở vùng Trung Á và Tây Á ngày nay, đó là Phật giáo, vị Phật mà họ thờ phụng là Phật Tích Lư Già Na. Lãnh thổ của đế quốc rộng lớn bao la, nằm ở trung tâm của cao nguyên Braxin, bao phủ phần lớn các nước Venezuela, Colombia, Peru, Argentina ngày nay. Ngành luyện kim khá phát triển, các thiết bị cơ khí họ sử dụng đa số được làm từ đồng và sắt. Về lĩnh vực chăn nuôi, họ chăn nuôi các loại gia súc lớn như trâu, ngựa, lạc đà, lợn v.v. số lượng lên đến hơn 300 triệu con. Những vùng đất nông nghiệp rộng lớn trồng ngô, lúa mỳ, mía, bông, khoai tây, cà chua, thuốc lá v.v., ngoài ra còn có rất nhiều các loại cây ăn quả nhiệt đới. Ngành hàng hải và ngư nghiệp cũng rất phát triển. Đội tàu lớn của đế quốc thường xuyên vượt biển liên lục địa, ngoài thực phẩm mang trên thuyền, các thuyền viên thường săn bắt những loài cá to như cá voi làm thức ăn.

Các đời vua của đế quốc Maya đều tiến hành chiến tranh với các quốc gia thờ phụng tà giáo ở các châu lục trên thế giới. Các quốc gia tà giáo đa phần đều thờ phụng một loại tà linh có mắt của rắn hổ mang và có cánh.

Vua của đế quốc Maya bấy giờ đã đến tuổi trung niên, nhưng có một điều khiến ông rất khổ tâm đó là ông chưa có con để kế thừa ngôi vua. Do vậy, sau bảy ngày tịnh tâm, gột rửa, ông đến trước tượng Phật cầu xin ban cho một đứa con. Vị vua Maya này đời trước từng là một cư sỹ thiện tâm, ông đã từng cúng dường thức ăn cho một người xuất gia khổ hạnh độc tu. Về sau người tu luyện này vì tâm tranh đấu không bỏ mà không đắc chính quả, chuyển sinh thành vua của đạo A Tu La. Vì xã hội thời đó đạo đức suy đồi, nhân tâm bất chính, tà giáo hoành hành, chúng sinh bị nghiệp lực báo ứng, vua của đạo A Tu La đã chuyển sinh thành con trai của vua Maya, được đặt tên là Hồng Thạch.

Ba năm sau, ngành chăn nuôi và nông nghiệp của Maya được một mùi bội thu, cả trăm năm mới có một lần, cây lúa phần lớn đều trổ hai bông, gia súc phần lớn đều đẻ hai con. Đến đầu mùa thu, một số loại hoa trái mùa vẫn nở rộ. Trong một căn nhà gỗ giữa rừng sâu, ngày nay thuộc lãnh thổ Venezuela, một thai phụ trẻ đang mang thai sắp sinh, liên tục mấy ngày có rất nhiều loài chim màu sắc rực rỡ đậu trên những cành cây quanh căn nhà gỗ hót líu lo ríu rít, còn có hàng trăm động vật nhỏ vây quanh căn nhà gỗ, thấy người trong thôn, chúng cũng không khiếp sợ, dù người dân trêu chọc thế nào chúng cũng không bỏ chạy, tất cả đều giương những con mắt lớn nhỏ chăm chú nhìn vào căn nhà gỗ như đang nóng lòng chờ đợi điều gì. Trong một cái hồ nhỏ cách thôn làng không xa, thỉnh thoảng những con cá lớn nhảy lên khỏi mặt nước, phát ra những âm thanh lớn, người dân trong thôn đều rất ngạc nhiên.

Thai phụ trẻ sinh hạ một bé gái, hương thơm đầy khắp phòng, sau khi bé gái cất tiếng khóc chào đời, các loài chim nhỏ, động vật nhỏ đều cất những âm thanh huyên náo như tiếng reo mừng, một thời gian lâu sau chúng mới dần dần lũ lượt rời đi. Quan lại địa phương biết chuyện lập tức trình báo lên triều đình về hiện tượng dị thường này. Vua Maya cũng rất kinh ngạc, liền tìm đến một vị cao tăng đại đức gần 400 tuổi để hỏi nguyên do. Vị cao tăng nhìn về hướng nơi bé gái vừa được sinh ra, hợp thập nói: “Đây là điềm lành của đế quốc”. Bé gái này là Nguyệt Quang Bồ Tát từ thượng giới chuyển sinh, đến để cứu độ chúng sinh khỏi khổ nạn. Vua Maya hợp thập quỳ trước cao tăng nói: “Đệ tử vẫn còn một vấn đề không hiểu, xin pháp sư chỉ giáo, vì sao khi bé gái đó sinh ra có rất nhiều chim thú tụ tập xung quanh, gặp người mà như không thấy, dù con người trêu chọc cũng nhất quyết không chịu rời đi”. Cao tăng tuy tuổi tác đã cao, lông mày và râu trắng như tuyết, nhưng khi từ từ mở mắt thì ánh mắt sáng rực và mạnh mẽ giống như ánh sao, ông chăm chú nhìn vua Maya nói: “Đó là do Phật tính từ bi, ân đức cảm hóa vạn vật. Những con vật nhỏ này được Phật tính từ bi cảm hóa đến tụ tập xung quanh cô bé, trong ánh hào quang của Phật tính mà cảm thấy thiện lương, hạnh phúc và bình tĩnh, quên hết tất cả sợ hãi”. Cao tăng nói xong khép hai mắt lại và không nói gì nữa, vua Maya cung kính cúi đầu rồi rời đi. Sau khi trở về cung, ông liền hạ lệnh: “Cô bé này sau khi thành niên sẽ trở thành vương phi của Hồng Thạch, triều đình sẽ chu cấp mọi thứ mà cô bé cần dùng, đến khi năm tuổi sẽ được đưa vào chùa của nữ tăng để tu hành, phái các nữ quan có đạo đức cao thượng đến bảo vệ và chăm sóc cho cô bé”, ông đặt tên cô bé là Minh Nguyệt Nhi.

Mười mấy năm sau, vua Maya đưa Hồng Thạch đến chùa của nữ tăng để thăm Minh Nguyệt. Minh Nguyệt nghe tin đã đến tiếp kiến nhà vua. Cô chưa kịp vào phòng đã nghe thấy âm thanh vui tai phát ra từ chiếc ngọc bội cô đeo trên người, đi đến cửa đã ngửi thấy mùi hương kỳ lạ hiếm có ở thế gian thoang thoảng khắp phòng. Sau khi gặp nữ tăng trụ trì và vua Maya, Minh Nguyệt đứng dậy rời đi. Hồng Thạch nhìn Minh Nguyệt không rời mắt, thấy Minh Nguyệt dung mạo thanh tú, dáng người uyển chuyển, thần thái đoan trang, đặc biệt là đôi mắt to mỹ lệ, trong sáng rạng ngời, như biển lớn sâu thẳm, như ánh mặt trời ấm áp. Hồng Thạch dần dần say đắm vẻ mỹ lệ của Minh Nguyệt. Vua Maya quay sang nữ tăng hỏi: “Vì sao trên thân của Minh Nguyệt Nhi lại có mùi hương kỳ lạ đến vậy?” Nữ tăng đáp: “Cô bé ấy từ nhỏ đến nay thân thể luôn tỏa ra mùi hương tự nhiên như vậy, chưa từng trang điểm gì”. Vua Maya và nữ tăng tiếp tục nói chuyện, bàn đến chuyện hôn sự của Thạch Hồng và Minh Nguyệt, chọn ngày lành tháng tốt để Minh Nguyệt và vương tử Maya chính thức thành thân.

Sau khi kết hôn, vương phi Minh Nguyệt sinh hạ một bé gái, Thạch Hồng rất vui mừng khi có cô con gái hoạt bát hiếu động này, mỗi khi xử lý xong chính sự quốc gia, anh thường ở bên cô bé. Bảy năm sau, vua Maya đã già và mắc bệnh qua đời, Hồng Thạch kế thừa ngôi vua, vương phi Minh Nguyệt trở thành hoàng hậu. Việc làm đầu tiên của hoàng hậu là giúp cho Phật giáo được truyền bá rộng rãi trên toàn quốc, cô sử dụng nguồn lực quốc gia để phổ cập văn hóa, giáo dục; gia tăng đãi ngộ phúc lợi xã hội cho dân chúng; thành lập hiệp hội phụ nữ toàn quốc, quan tâm, chăm sóc cho địa vị, cuộc sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ trong xã hội. Cô còn khuyến khích vua Maya hãy lấy đức trị quốc, thống lĩnh thiên hạ. Cô nhiều lần giúp vua Maya xử lý, giải quyết xung đột biên giới, tránh xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia.

Hoàng hậu đối xử với rất từ bi với mọi người, dù các nô bộc trong cung phạm lỗi, hoàng hậu Minh Nguyệt cũng sẽ giảng rõ đạo lý để các nô bộc sửa chữa sai lầm, không tái phạm lại sai lầm nữa. Tất cả những người tiếp xúc với cô đều vô cùng kính phục phẩm cách cao thượng của hoàng hậu Minh Nguyệt. Trí huệ và sự từ bi siêu thường của hoàng hậu Minh Nguyệt đã cảm phục dân chúng toàn đế quốc. Tất cả phụ nữ trong đế quốc Maya đều lấy hoàng hậu Minh Nguyệt làm gương, hoàng hậu ăn chay nên phụ nữ toàn quốc đều dấy lên phong trào ăn chay, mỗi loại trang phục và trang sức mới dù giản dị hay cao quý của hoàng hậu sẽ ngay lập tức trở nên thịnh hành trong giới nưx toàn quốc. Thậm chí dầu tắm gội chế từ thảo dược mà hoàng hậu thường dùng cũng trở thành mục tiêu tìm kiếm của những phụ nữ quý tộc. Nhưng quan trọng hơn là sự từ bi của hoàng hậu Minh Nguyệt đã giáo hóa mọi người phụ nữ thời đó, từ những bé gái cho đến những bà lão tóc bạc đều biết rõ những việc hành thiện của hoàng hậu. Hoàng hậu Minh Nguyệt khơi nguồn cho các phong trào thịnh hành thời đó. Sau khi Hồng Thạch lên ngôi vua đã thực hiện các biện pháp để củng cố thêm quyền thống trị, tăng cường xây dựng quân đội, gia tăng số lượng cấm vệ quân từ 1 vạn người lên đến 4 vạn người, quân đội chính quy thường trực trên toàn quốc tăng từ 40 vạn người lên đến 100 vạn người, quân đội dự bị tăng lên đến 300 vạn người. Tiêu chuẩn tuyển chọn cấm vệ quân là ngoài việc phải được rèn luyện trong chiến tranh và có kỹ năng chiến đấu cực kỳ cao siêu ra thì trước khi được phục vụ chính thức, những người này còn được phái đến những quốc gia đối địch ở Bắc Mỹ, sống tối thiểu một tháng trong hoàn cảnh không có bất kỳ sự chi viện nào của hậu phương, đồng thời phải mang về ít nhất một thủ cấp và vật biểu tượng quân hàm của quân nhân phe địch. Những cấm vệ quân này đa phần là những thuộc hạ A Tu La chuyển sinh theo vua A Tu La.

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Các quốc gia tà giáo ở đại lục phương Bắc lo sợ trước sự hùng mạnh của đế quốc Maya, đã tìm mọi cách ngăn cản và phá hoại sự ổn định và phồn vinh của đế quốc Maya. Họ dùng rất nhiều vàng để mua chuộc một tín đồ tà giáo ẩn trong các quan của vương triều, âm mưu đầu độc hoàng hậu nhưng kế hoạch bất thành, họ liền ra tay hạ độc con gái của vua Maya.

Vua Maya biết được sự thật đã nổi trận lôi đình, đem xử tử toàn bộ những người liên quan. Qua nhiều ngày suy nghĩ, vua Maya triệu tập hội nghị quân sự cấp cao. Đứng trước các tướng lĩnh, vua Maya nghiêm túc và trang nghiêm, ánh mắt của ông sắc bén như chim ưng từ từ nhìn qua mỗi cấm vệ quân hung hãn bên mình, nhìn qua từng khuôn mặt của mỗi vị tướng lĩnh chiến công lừng lẫy bên cạnh mình, cuối cùng ánh mắt ông dừng lại trước một vị tướng quân một mắt và bình tĩnh ra lệnh: “Tập hợp toàn bộ quân đội của đế quốc, ban lệnh động viên chiến tranh trên toàn quốc”. Nói xong rời đi, theo sau là đội cấm vệ quân.

Những ngày tiếp theo, vua Maya trước tiên xuất quân bình định các quốc gia ở Nam Mỹ thờ phụng “Dực mãng thần”. Trong chiến tranh, vua Maya đã truyền lệnh tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành: Hễ gặp người chống cự lại thì giết không tha, hễ gặp người tín ngưỡng tà giáo mà không cải biến giết không tha. Sau khi vua Maya mang sư đoàn Hổ Lang của mình bình định toàn bộ Nam Mỹ, ông tập kết gần vạn chiến hạm vượt đại dương và gần 120 vạn quân viễn chinh, với lòng phẫn nộ và hận thù bừng bừng đặt chân lên đại lục phương Bắc (đại lục Bắc Mỹ). Ngoài việc tấn công chính diện, vua Maya còn bí mật phái ba đạo cấm vệ quân, mỗi đội có quân số một vạn người, đi đánh úp thủ đô của ba quốc gia tà giáo chủ chốt ở đại lục Bắc Mỹ, ám sát quốc vương của các quốc gia đó. Mệnh lệnh đặt ra là bằng mọi giá phải thực hiện được mục tiêu chiến lược.

Sau một tháng quân viễn chinh tấn công thẳng vào đại lục Bắc Mỹ, ba đạo quân cấm vệ quân đã tập kích thành công, đô thành của ba nước bị phá hoại thiêu hủy thành tro, chỉ có một vị quốc vương bị trọng thương chưa chết và đã được cứu sống. Quân đội ba nước bị mất đi đầu não chỉ huy thống nhất nên hỗn loạn không chống trả được, bị vua Maya tập trung ưu thế binh lực đánh bại. Đại quân Maya đi đến đâu thì chó gà cũng không còn, thành bang làng mạc đều bị thiêu trụi, trong suốt một thời gian ở đại lục Bắc Mỹ đâu đâu cũng trở thành những vùng đất chết chóc, hoang tàn. Hoàng hậu Minh Nguyệt sau khi biết được tình hình chiến tranh đã lập tức viết thư khuyên nhà vua hãy nhân từ với người dân, khoan dung, tha thứ cho phụ nữ và trẻ nhỏ. Sau nhiều lần khuyên bảo, vua Maya đều không động lòng, vẫn tiếp tục thực thi các chính sách chiến tranh diệt chủng. Sau năm năm, chiến tranh tàn khốc cũng bước vào giai đoạn cuối, vị quốc vương tà giáo cuối cùng đã bị đại quân Maya vây khốn trong một thung lũng, trong lúc hấp hối, ông ta đã cho gọi một thầy phù thủy nắm vững ma pháp hắc ám của ‘Dực mãng thần’ đến và nói: “Ta sẽ dùng tất cả mọi thứ mà ta có để đánh đổi, xin ngài nhất định phải thực hiện nguyện vọng của ta, xin ngài hãy báo thù cho ta và thần dân của ta”. Thầy phù thủy mặc áo bào đen nhìn quốc vương đang hấp hối bằng con mắt đỏ ngầu, chậm rãi gật đầu đồng ý, sau đó quay người biến mất trong dãy núi tối đen. Chiến tranh kết thúc, vua Maya thống lĩnh đại quân A Tu La của mình trở về đô thành ở Nam Mỹ.

Nhà vua quay trở về bên hoàng hậu Minh Nguyệt, nhưng hoàng hậu không biểu lộ một chút vui mừng nào, ánh mắt nghiêm nghị nhìn vua Maya. Vua Maya nhìn vào đôi mắt to mỹ lệ của Minh Nguyệt và hỏi: “Vương hậu, ta đã báo được thù cho con gái chúng ta, đại quân của chúng ta đã bình định được tất cả các quốc gia tà giáo, ta đã trở về bên cạnh nàng, vì sao nàng lại không vui vậy?” Minh Nguyệt đứng dậy hành lễ với vua Maya và nói: “Đại vương, trời cao có đức hiếu sinh, nhưng ngài lại giết hại sinh linh khắp nơi, khiến cho gần 40 triệu người dân ở năm nước bị tàn sát hết, tội nghiệp sát sinh sâu nặng như trời như biển, Thần Phật đã cảnh báo cho thiếp rằng thần dân, con cháu của ngài cũng sẽ bị lời nguyền rủa diệt chủng”. Vua Maya nghe xong, trở nên trầm mặc không nói gì, hạ giọng hỏi lại: “Không có cách nào có thể bù đắp sao?” Hoàng hậu Maya đáp: “Có, thứ nhất là ngài cần phải tích đức hành thiện, không được dẫn quân đi tàn sát sinh linh nữa; thứ hai là cần phải toàn tâm hướng Phật, chỉ có tu Phật mới có thể bù đắp tội lỗi trước đây; ba là thiếp sẽ thỉnh cầu Thần Phật, chúng ta sẽ cùng gánh chịu trừng phạt”. Sau khi nghe xong, vua Maya run run người nhìn hoàng hậu mà không nói được lời nào.

Năm sau đó, vì vua Maya vô đức tàn sát sinh linh, quốc gia của ông đã phải gánh chịu sự trừng phạt của Thần: động đất, núi lửa phun trào; bệnh dịch hoành hành, dân số giảm mạnh; nước biển dâng, khí hậu biến đổi, sản lượng nông nghiệp thấp và mất mùa; gia súc chết rất nhiều, khắp quốc gia đâu đâu cũng đầy mùi tử khí. Tử thần tự do hoành hành trên vùng đất đã từng rất màu mỡ này. Vua Maya ăn ngủ không yên, thân thể tiều tụy, hoàng hậu nhìn thấy cảnh ấy, trong tâm rất đau khổ. Sau khi biến mất trong suốt một tháng, hoàng hậu Maya lại xuất hiện trước mặt nhà vua, dáng vẻ vẫn thuần khiết, dịu dàng, mỹ lệ như lần đầu tiên Hồng Thạch gặp hoàng hậu. Vua Maya vội vàng hỏi: “Những ngày qua, vương hậu đã đi đâu, ta thực sự rất nhớ nàng!” Hoàng hậu lấy cuốn sách dày bằng vải lụa trong tay người thị nữ bên cạnh mình và nói: “Trong một tháng qua, thiếp đã đến nhờ ba vị cao tăng để hỏi xem thần dân Maya sau này còn phải gặp những đại nạn gì, kết hợp với những điều mà Thần Phật đã khai thị cho thiếp biết mà viết thành cuốn sách này, để cảnh báo cho con cháu đời sau của người Maya cách tránh khỏi tai họa. Cuốn sách này ghi chép lại lời tiên tri về những sự kiện sẽ xảy ra liên tục cho đến khi vị Phật Chủ vĩ đại nhất vũ trụ tương lai giáng hạ nhân gian để cứu vớt tất cả sinh mệnh trong vũ trụ, con cháu của người Maya chúng ta cũng sẽ được Phật Chủ cứu vớt, đến lúc đó lời tiên tri sẽ kết thúc”.

Vua Maya nghe xong vô cùng chấn động, ông xem một lượt cuốn sách tiên tri, liên tục mấy ngày ăn ngủ rất ít, tập trung toàn bộ tinh thần xem từng chương từng đoạn của cuốn sách tiên tri. Mấy ngày sau, hoàng hậu Maya lâm bệnh nặng, phải nằm liệt giường không dậy được. Sau hơn chục ngày, vua Maya đến thăm hoàng hậu, vừa ngồi xuống thì thấy hoàng hậu tinh thần tươi tỉnh hơn so với những ngày trước, vua Maya rất vui mừng. Hoàng hậu nói: “Đại vương, thiếp thỉnh cầu ngài giao cuốn sách tiên tri này cho một vị pháp sư đại đức gìn giữ, lưu truyền cho hậu thế”. Vua Maya gật đầu đồng ý. Hoàng hậu lại nói tiếp: “Đại vương, nơi đây sắp trở thành vùng đất bị nguyền rủa, sau khi thiếp qua đời, thỉnh cầu ngài lập tức rời đô để duy trì nòi giống con cháu người Maya”.

Vua Maya nói: “Vương hậu nói gì vậy, nàng sẽ nhanh chóng khỏe lại thôi”. Minh Nguyệt chỉ khẽ cười, tiếp tục nói: “Đừng vì sự ra đi của thiếp mà bi thương, có thể vì người mà thiếp yêu, vì những người dân mà thiếp đã nhiệt thành yêu mến mà phó xuất sinh mệnh của mình, đối với thiếp thì đó đã là một điều hạnh phúc rồi. Mặc dù biệt ly nhưng sẽ có ngày gặp lại. Ngài sẽ vĩnh viễn sống trong tim thiếp!” Nói xong hoàng hậu Maya chỉ lặng lẽ nhìn vua Maya, ánh mắt của nàng rất chăm chú, như muốn vĩnh viễn khắc ghi hình ảnh của vua Maya trong tim mình. Trong khoảnh khắc, đôi mắt cô phát ra ánh sáng kỳ lạ, cô mỉm cười, nụ cười của cô giống như ánh mặt trời sưởi ấm trái tim của nhà vua. Cứ như thế, hoàng hậu Maya mang theo nụ cười rạng rỡ như ánh mặt trời rời xa tất cả mọi thứ mà cô đã yêu mến.

Sau lễ quốc tang của hoàng hậu, vua Maya rời đô đến đại lục Bắc Mỹ, thuộc địa phận của Mexico ngày nay, xây dựng lại kinh đô mới. Kể từ khi hoàng hậu qua đời, cuộc sống hàng ngày của vua Maya đều chìm trong nỗi nhớ nhung da diết, bất cứ sự việc gì cũng không thể làm ông vui vẻ trở lại. Nhiều năm sau, khi vua Maya đã về già, ông đến quỳ trước tượng Phật, nhớ đến nỗi đau mất đi con gái yêu và hoàng hậu mà không cầm được nước mắt, than rằng: “Phật đà vĩ đại! Con biết con phạm tội nghiệp sâu nặng, con xin thành tâm sám hối trước mặt người vì tất cả những tội nghiệp của con. Con tuy là đế vương, nắm giữ tất cả mọi quyền lực và tài sản trong thiên hạ, nhưng con lại không thể giữ được người mà con yêu! Con không còn muốn làm một con người bình thường nơi trần thế nữa, xin ngài ban cho con trí huệ và sức mạnh để con có thể cứu vãn được sinh mệnh của những người khác. Ngay cả khi con không còn gì cả, con cũng muốn có năng lực cứu người”.

Vài năm sau, vua Maya qua đời, thế hệ sau của ông sinh sống tại đại lục Bắc Mỹ rộng lớn, cuốn sách ghi lại những lời tiên tri của hoàng hậu Maya được lưu truyền rộng rãi trong những người Maya. Trong số những người lưu truyền cuốn sách các đời sau có một số là người tu luyện trong tôn giáo đã đạt đến cảnh giới rất cao, họ đã thêm một số lời tiên tri của mình vào cuốn sách tiên tri này. Cho đến ngày nay, nhân loại chúng ta thời kỳ này gọi nó là lời tiên tri Maya, trong suốt mấy vạn năm lưu truyền, một số nội dung đã bị mất đi, nhưng những nội dung chủ yếu vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay.

13.000 năm sau khi vua Maya qua đời, một vương tộc người Maya nắm giữ ma pháp hắc ám đã sử dụng năng lực thần giao cách cảm của ma pháp để liên hệ với những sinh mệnh đến từ hành tinh Orion, họ đã ký kết với ma giới. Người ngoài hành tinh dùng khoa học kỹ thuật ngoài hành tinh giúp vương tộc này phát triển quân sự, gây chiến với các nước xung quanh, họ bắt rất nhiều tù binh và các loại động thực vật, cung cấp cho người ngoài hành tinh làm mẫu vật sống nghiên cứu. Ngoài ra, họ còn sử dụng ma pháp hắc ám để kéo dài tuổi thọ cho những người ngoài hành tinh cao cấp. Người ngoài hành tinh cao cấp để tỏ lòng cảm ơn, đã tặng cho vương tộc Maya một chiếc hộp sọ pha lê. Trong tầng nguyên tử của chiếc hộp so pha lê này có lưu trữ lịch sử phát triển của người ngoài hành tinh, một số lý luận và thành quả về vũ trụ mà người ngoài hành tinh tìm hiểu và nhận biết được. Về sau, một số người tu luyện chính pháp thấy rằng hộp sọ pha lê là một phương tiện lưu giữ thông tin rất tốt, nên một số người tu luyện ở cảnh giới cao đã sử dụng khoa học ngoài hành tinh mà con người lúc bấy giờ nắm vững được để chế tạo ra một số hộp sọ thủy tinh nữa, họ dùng công năng đưa những pháp lý vũ trụ mà mình chứng ngộ được lưu vào trong hộp sọ pha lê. Họ dùng chúng làm pháp khí tôn giáo lưu lại cho những người tu luyện hậu thế; cũng có một số hộp sọ pha lê là do đế vương đời sau nhờ các pháp sư trong tôn giáo chế tạo để kỷ niệm những vĩ nhân hoặc một thời kỳ lịch sử đặc thù nào đó trong quá khứ.

Chỉ có 13 hộp sọ pha lê được lưu truyền đến ngày nay. 13 hộp sọ pha lê này được những người khác nhau chế tạo trong các thời kỳ khác nhau với các mục đích khác nhau. Người Maya ký kết giao ước với người ngoài hành tinh đã phát triển gần 5000 năm, họ muốn dùng khoa học kỹ thuật của người ngoài hành tinh để thoát khỏi sự khống chế của người ngoài hành tinh nhưng họ đã bị người ngoài hành tinh tiêu diệt hoàn toàn bằng vũ khí biến đổi gien và vũ khí hạt nhân. Trước khi họ bị tiêu diệt, căn cứ cuối cùng của họ ở khu vực trung và hạ lưu sông Amazon.

Năm tháng vô tình. Hôm nay sau hàng vạn năm, hoàng hậu Maya đã chuyển sinh thành một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, cô vẫn thừa hưởng vẻ đẹp mỹ lệ truyền kỳ thời tiền sử, chỉ là đôi mắt to đẹp luôn u sầu, bất cứ ai từng gặp cô đều không khỏi chấn động trước khí chất của cô, thân thể cô vẫn tỏa ra mùi hương rất kỳ diệu như trước đây. Cô tích cực tham gia các hạng mục Chính Pháp của đệ tử Đại Pháp và đạt hiệu quả rất tốt. Vua Maya cũng là một đệ tử Chính Pháp, anh ấy thực sự có được năng lực cứu người mà Đại Pháp ban cho, nhưng cũng đúng như thệ ước của anh: đời này anh đúng là không có gì cả, chỉ có năng lực cứu người. Có lúc hồi tưởng lại từng giai đoạn sinh mệnh mà đồng tu đã trải qua trong lịch sử, quả thực khiến người ta cảm xúc thăng trầm, xúc động tận tâm can.

Đứng từ giác độ con người ngày nay để tìm hiểu lịch sử, chúng ta không còn thấy được đế quốc Maya hùng mạnh đã từng xuất hiện tại đại lục Châu Mỹ nữa, chỉ có thể qua một số di tích cổ đại mà cảm nhận được sự huy hoàng của thời đại Maya tiền sử. Tôi phảng phất nhìn thấy những cung điện hùng vĩ, những tường thành, cột trụ và lăng mộ, dường như vẫn đứng sừng sững qua những năm tháng lịch sử đau thương, hiển hiện cho chúng ta thấy sự phồn hoa năm xưa.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/118575

Nguồn: [ChanhKien.org]

Các bài viết liên quan:

[related_posts_by_tax title=""]

VIDEO GỢI Ý

[youlist randomvid="2ixVsuU5MOw, Ongzpm5qN18, FrPYclwSF_A, nX8VpCywqD0, ZXketPYULb0, Gme6hDduhDQ, o_yK8hgb5-Y, 8PlXEoD-_9U, qDMQPIoSdPs, whmtXT5Zgrk, 8x3SFMa7hP0, jGv3n2Uhi4U" showinfo="1" width="768" height="480" class="youlist" autohide="2" autoplay="0" disablekb="0" theme="dark" modestbranding="0" controls="1" color="red" fs="1" rel="0" start="0" loop="0" iv_load_policy="1" version="3" style="" vq="" nocookie="0" https="1" wmode="" parameters=""]

Hits: 13

Bài nên xem:

Khi bạn hiểu sai về Pháp Luân Công, thì sẽ dẫn đến việc gì?

Đơn giản là - hiểu sai thì sẽ có ứng xử hành động sai, ứng xử hành động sai thì kết quả không tốt cho mình [và kể cả người thân], vì người ta nghĩ gì làm gì thì đều sẽ phát sinh một kết quả về sau, đó là quy luật. Cụ thể việc này ra sao? Các bạn đọc ở vế sau bài viết, chúng tôi cần nói một chút về bối cảnh và đầu đuôi sự việc các bạn mới có thể hiểu hết.

Học viên Pháp Luân Công Việt Nam luyện công (Nguồn ảnh: Internet)

Có một điều mà rất nhiều người vướng phải, ấy là cho rằng Pháp Luân Công là tà đạo, làm chính trị. “Chẳng đúng thế sao, đài báo ti vi, trên mạng trên facebook họ nói đầy đấy thôi, đài báo nhà nước cũng nói đấy thôi”. Bạn nói thể chẳng phải rất ư là định kiến theo số đông và bất công sao? Chúng ta ai cũng nói câu tôi nghe gì cũng là “nghe bằng hai tai” hoặc “không biết thì cũng không nên nghe này kia mà nói lung tung”, nhưng bạn đang dùng hai tai mà nghe mà tin cùng một luồng thông tin nói xấu, trang web và sách của Pháp Luân Công công khai trên mạng, muốn biết tốt xấu thì xem trực tiếp nghe trực tiếp những gì họ học họ làm thì sẽ rõ hết chứ đâu cần nghe qua ai. Là “tà đạo” thì giáo lý việc làm của nó nhất định phải liên quan đến điều ÁC. Là “làm chính trị” thì nó nhất định phải tranh quyền tranh chức hay cái ghế của ai đó, hay là liên quan đảng phái đấu đá,vv… Pháp Luân Công không có những điều này, bạn có thể kiểm chứng bằng việc tìm hiểu những điều họ học tại trang web chính thống của Pháp Luân Công [https://vi.falundafa.org/] có chữ nào là dạy làm ác, có chữ nào là kêu đi làm chính trị đảng phái. Đôi khi chúng ta sống một đời cùng vợ chồng, cha mẹ, thân thiết như vậy nhưng cũng không hiểu hết họ, huống hồ một tình huống mà chúng ta ở ngoài  và nghe qua như Pháp Luân Công.

Nhưng đài báo ti vi nhà nước cũng nói như vậy” - đài báo ti vi nhà nước cũng rất nhiều kênh, có kênh nói có kênh không, đài báo ti vi cũng là người có hiểu đúng và hiểu sai, có người đưa tin sự thật và có người đưa tin theo “ý đồ” của cá nhân người viết, việc ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công đã cách đây 23 năm [1999], bây giờ họ viết bài cũng chỉ dựa vào tài liệu lượm lặt trên mạng hoặc bên nhà nước TQ đưa qua, đây chẳng khác nào là “lấy “sự thật” được nói ra từ miệng tên giết người cưỡng bức rồi về đưa tin về vụ án mà nó gây ra”, và sự thật mà tên giết người đó nói là nó có lý do hợp lý để giết người và cưỡng bức - trớ trêu thay đây là chỗ mà nhiều người tin theo.

Quay ngược thời gian nói về việc này, HitsLe khi diệt chủng  6 triệu người Do Thái hắn ta cũng làm công tác tuyên truyền, nhiều người dân Đức lúc bấy giờ cũng ủng hộ và đồng quan điểm với nó, nghe nói hắn cũng cho rằng người Do Thái muốn lật đổ và “làm chính trị”. Cho đến hôm nay nhân loại nhìn nhận hắn là kẻ diệt chủng tàn ác và là điển hình của tội ác với nhân loại.

Thời Kmer đỏ thổng trị Campuchia đã gây ra cái chết của ước chừng khoảng 1,4 triệu đến 2,2 triệu người, mà lúc đó tổng số dân của Campuchia chỉ khoảng hơn 7 triệu người, nó đương nhiên cho đài báo tuyên truyền rằng những người bị giết là thành phần "phản đảng, làm chính trị, phản cách mạng" (Khmer đỏ cũng là ĐCS và được Trung Cộng tiếp tay), một kiểu đại loại như thế. Nhân dân Campuchia thời đó cũng nhiều người đồng quan điểm và tin theo tuyên truyền của Pol Pot. Và giờ đây cả thế giới đã phán xử, nhân loại cũng biết về tội ác diệt chủng của nó.

ĐCSTQ đàn áp gia đình học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc (Nguồn ảnh: Chánh Kiến Net)

So sánh về mức độ tàn ác thì ĐCSTQ còn nhỉnh hơn HitLe và PolPot, lý do gì khiến bạn tin vào vu khống của nó về Pháp Luân Công rồi cho rằng Pháp Luân Công là “tà đạo, làm chính trị,vv…” trong khi cha ông của người Việt nhiều người đã chết nơi biển đảo hay biên giới vì đạn dược của Trung Cộng,  rất có thể sẽ rơi vào tình huống của người dân thế giới thời bấy giờ tin và nghe theo tuyên truyền của HitLe hay PolPot trước khi tội ác của nó chưa bị phơi bày.

Lại nói tôi tin vào đài báo của nhà nước Việt Nam chứ chẳng tin vào đài báo ĐCSTQ, đúng rồi, nhiều đài báo láng giềng của Đức cũng đưa tin theo tuyên truyền của HitLe và người dân láng giềng thì tin vào tuyên truyền của nhà nước họ, gián tiếp tin theo thôi.

Dẫn ra các ví dụ trên để nói về cách chúng ta tiếp nhận thông tin đài báo, phải chăng chúng ta có lần đã tự lừa mình theo cách trên khi phán đoán nhận định về một ai đó?

Hiểu về Pháp Luân Công thế nào cho đúng? 

Pháp Luân Công là một môn tu thuộc trường phái Phật, chiểu theo nguyên lý Chân Thiện Nhẫn để tu tâm và hành xử hàng ngày, kèm thêm 5 bài tập nhẹ nhàng giúp nâng cao sức khỏe. Người tu luyện Pháp Luân Công đa phần đạt được lợi ích to lớn về đạo đức và sức khỏe, điều này tạo thành sức hút mạnh mẽ khi vào 1999 đã có 100 triệu người Trung Quốc theo học (1/10 dân số TQ lúc bấy giờ).

Cảnh luyện công của các học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc trước 20 tháng 7 năm 1999 (Ngồn ảnh: Minh Huệ Net)

Việc Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công chủ yếu là vì sự ganh tỵ: 100 triệu là lớn hơn số đảng viên ĐCSTQ thời bấy giờ [70 triệu], nó không chịu được việc có một đoàn thể nào lớn hơn nó. Nó cũng không chịu được khi sách của Pháp Luân Công (cuốn Chuyển Pháp Luân) thì người dân TQ người người tìm đọc, chuyền tay nhau đọc trong khi sách của nó (các sách về đảng) thì phải cưỡng chế nhồi nhét vào đầu người dân. Nó không chịu được vì người học Pháp Luân Công tin Thần kính Phật trong khi nó muốn lòng kính trọng Thần của người dân không được lớn hơn việc tôn thờ nó, nó muốn người dân coi đảng là nhất. Nó ganh tỵ vì người tập Pháp Luân Công lúc đó rất nhiều người tự nguyện làm việc tốt trong khi đảng viên của nó thì thỉnh thoảng mới có một tấm gương người tốt điển hình. Nó [Giang Trạch Dân - tổng bí thư ĐCSTQ lúc bấy giờ] không chịu được việc vợ, cũng như cấp dưới của nó hết lời ca ngợi đức độ của vị Sư phụ Pháp Luân Công, không chịu được việc người dân TQ kính trọng vị thầy của Pháp Luân Công từ tấm lòng trong khi nó là một lãnh tụ lại không có được điều này.

Tất cả điều trên khiến Giang Trạch Dân và ĐCSTQ phát động đàn áp Pháp Luân Công. Có người không thể nào tin được việc một lãnh tụ cấp cao lại đem lòng ganh tỵ và nghe phi lý, chủ yếu là vì họ vốn quan niệm rằng cấp cao là có đạo đức tư cách tốt, trong khi lịch sử nhân loại cho thấy ngay rất nhiều bậc vua chúa gọi là “hôn quân vô đạo”, lãnh đạo cấp cao nhưng nó cũng là người  không phải Thần Phật, là người mà ở vị trí nào mà không giữ được đạo đức thì cũng hành xử tệ thôi, chẳng phải thời hiện nay chúng ta đã chứng kiến rất nhiều tham quan ghế to chức to cũng làm điều xằng bậy đấy sao, núi thì to nhưng không phải không có rắn độc. Việc Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công đã có nhiều quốc gia lên án và truy tố về tội ác này.

Thế giới lên án tội ác của Giang Trạch Dân. Ông ta sẽ bị trừng phạt vì đã đã tiến hành bức hại Pháp Luân Công (Nguồn ảnh: Tinh Hoa)

Khi bạn hiểu sai về Pháp Luân Công, thì sẽ dẫn đến việc gì? Hiểu sai thì sẽ phát sinh ác cảm hoặc thù ghét phỉ báng, hoặc tham gia trực tiếp vào việc phá họ. Nhưng Pháp Luân Công là Phật Pháp, ác cảm hay thù ghét phỉ báng họ cũng chính là đang ác cảm thù ghét phỉ báng đối với Phật Pháp, ứng xử với Phật Pháp cũng tương đương với đang ứng xử với vị Thần vị Phật hoặc đệ tử của họ. Người có đức tin vào Thần Phật ai cũng biết rằng, khi một người thù ghét, xúc phạm, phỉ báng Thần Phật, Phật Pháp [dù chỉ là ý nghĩ trong tâm] thì sẽ tạo thành tội nghiệp to lớn và chịu báo ứng bi thảm vì tội nghiệp này. Có một điều dễ khiến người sai lầm ấy chính là họ không tin vào báo ứng và cho rằng chuyện viển vông mê tín, nói rằng tôi chả thấy ai bị báo ứng cả. Vì sự thật chẳng báo chí hay nhà nước nào đi thống kê “nhân quả báo ứng cả”, và đương sự bị báo ứng lúc đó họ chẳng thể đội mồ dậy nói cho chúng ta nghe, những chuyện nghe được từ dân gian hay người truyền lại thì lại cho là mê tín viển vông. Người Việt nói: “có kiêng có lành”, kính trọng Thần Phật hay tín ngưỡng chân chính thì chẳng mất gì cả, đương nhiên lành mà không có hại, còn việc xúc phạm một tín ngưỡng hoặc đoàn thể tín ngưỡng khác chỉ vì những điều của họ khác với nhận thức của bạn lại là việc rất không nên, có hại, bởi vì họ không tổn gì bạn cả. Nếu mà vô tri hùa theo đám ông mà ứng xử sai với những điều liên quan đến Thần Phật, Phật Pháp, hay cá nhân đoàn thể tín ngưỡng thì lại càng không nên.

Chúng tôi vừa nói cho bạn biết sự thật về Pháp Luân Công và lý do vì sao bạn cần hiểu đúng về nó, mục đích không phải vì để bạn học Pháp Luân Công, mà vì đây là Phật Pháp. Chúng ta không nên thù hận Phật Pháp, nếu không sẽ mang tai họa đến cho bản thân. Và khi nói về tội ác ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công, thì đương nhiên cần chỉ đích danh kẻ gây tội ác là ai. Chỉ đích danh ĐCSTQ thì phải có chữ “đảng”, có chữ “đảng” trong trường hợp này nào có liên quan gì đến chính trị. Đây cũng chính là điểm mà nhiều người vin vào để nói rằng Pháp Luân Công làm chính trị, chỉ vì có nhắc đến một chữ “đảng”.

Hiểu được rằng Pháp Luân Đại Pháp - Chân Thiện Nhẫn là tốt thì sẽ có được phúc báo và bình an - may mắn (Nguồn ảnh: Pinterest)

Khi bạn hiểu đúng, bạn sẽ không thù ghét ác cảm với Pháp Luân Công, không phỉ báng Phật Pháp, không hùa theo tuyên truyền vu khống của Trung Cộng, sẽ không phải chịu những gì liên quan đến báo ứng đối với việc này. Hàng trăm triệu học viên Pháp Luân Công thường nói điều này, không hùa theo Trung Cộng trong tội ác mà nó làm đối với Pháp Luân Công thì sẽ không bị họa lây khi trời diệt nó. Hiểu được rằng Pháp Luân Đại Pháp - Chân Thiện Nhẫn là tốt thì sẽ có được phúc báo và bình an - may mắn. Chúng tôi chính mong muốn điều này cho bạn và người thân của bạn! Công đạo trong lòng tự bạn soi xét có thể hiểu được!

Tác giả: Pháp đồ

Nếu quý độc giả có câu chuyện hay, bức ảnh đẹp, lời thơ sâu lắng... có ý nguyện cùng chúng tôi gìn giữ những giá trị đạo đức truyền thống. Xin vui lòng gửi về hòm thư: admin@quayvetruyenthong.org

Có thể bạn quan tâm:

BÀI VIẾT XEM NHIỀU