Chủ Nhật, 24 Tháng Chín 2023

Ba câu chuyện về người xưa giữ vững thành tín

Trời phù hộ người có thiện tâm

Đầu tháng Tám năm Canh Dần (1890 SCN), dưới thời trị vì của Hoàng đế Quang Tự, có một người tên là Từ Thiếu Ngư, người Tiền Đường. Ông đã vay mượn một trăm lượng bạc từ Di Trai. Họ không làm giấy ghi nợ mà chỉ hứa bằng miệng một năm sau sẽ hoàn trả đủ số tiền. Đầu tháng Tám năm sau, Từ Thiếu Ngư ngã bệnh.

Trong lúc nguy kịch nằm trên giường bệnh, ông lẩm bẩm nói: “Thời hạn trả tiền đến rồi, nếu mình có bất trắc gì thì làm sao đây?”

Vợ ông nghe vậy liền nói: “Số tiền ông mượn không có giấy ghi nợ nên ông không phải làm theo lời đã hứa. Ông không cần phải lo lắng!”

Từ Thiếu Ngư nói: “Vì Di Trai tin tưởng tôi nên mới không cần giấy ghi nợ. Tôi sao có thể hứa mà không giữ lời được?”

Ông bèn bảo vợ lấy miếng ngọc như ý và áo lông chồn mang đi bán được chín mươi lượng bạc, rồi mượn thêm người khác mười lượng bạc để trả lại cho Di Trai vào đúng thời hạn như đã hứa. Mấy hôm sau, Từ Thiếu Ngư khỏi bệnh.

Khi đã hứa với người khác việc gì thì phải giữ lấy lời, giữ vững nguyên tắc hành xử “chân thực”, bất kể như thế nào cũng nhất định phải làm được. Đây chính là điều căn bản trong đối nhân xử thế, là một loại mỹ đức truyền thống. Người xưa không màng đến gia cảnh bản thân, giữ vững lời hứa và chuẩn tắc làm người, thật khiến lòng người cảm phục. Thần tích vì thế cũng có thể xuất hiện trong cuộc sống.

Quý Trát treo kiếm

Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, nước Ngô (hiện nay là vùng Giang Tô) được xem là một vùng đất thần kỳ. Mặc dù nước Ngô thời đó được xem là nơi biên cương; nhưng được thiên thượng để mắt tới, chọn nơi đây là mảnh đất sinh ra “Binh pháp Tôn Tử”, cố sự “Ngô Việt tranh bá” cũng là xảy ra ở nơi ấy.

Đặc sản của vùng này cũng có quan hệ với chiến tranh, nước Ngô là nơi sản xuất ra những binh khí tinh nhuệ, trứ danh thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Thời đó có một bài ca dao cổ gọi là “Từ nhân ca”, viết rằng: “Trát công tử ở Diên Lăng không quên chuyện xưa, cởi bỏ bảo kiếm đáng giá nghìn vàng dâng lên mộ phần.”

Bài cao dao ngợi ca Quý Trát công tử ở Diên Lăng, nước Ngô không quên lời hứa của bản thân mình.

Quý Trát là con trai út của vua Ngô Vương Thọ Mộng đời thứ mười chín của nước Ngô, bản thân chữ “Quý” này cũng mang ý nghĩa là “nhỏ nhất”. Một hôm, trên đường viếng thăm nước Lỗ, Quý Trát phải đi qua nước Từ, một nước chư hầu. Quý công tử từ nước mẹ tới, được vua nước Từ nhiệt tình tiếp đãi. Trong thời gian này, vua nước Từ rất thích bảo kiếm mà Quý Trát đeo trên người. Thanh bảo kiếm của Quý Trát đã thu hút vua nước Từ.

Cho đến nay không ai biết được kỹ thuật đúc kiếm của nước Ngô, nhưng thông qua văn vật khai quật những năm gần đây thì có thể được mở mang tầm mắt. Bảo kiếm của Ngô Vương Phù Sai, bảo kiếm Ngô Vương Quang v.v sau hơn hai nghìn năm khai quật vẫn bóng loáng, sắc bén như thuở xưa.

Quý Trát viếng thăm nước Lỗ không phải là một chuyến đi bình thường, mà là đi sứ bàn việc quốc sự nên ông không thể đem tặng bảo kiếm. Chiểu theo tiêu chuẩn quý tộc thời Xuân Thu Chiến Quốc, khi đi ra ngoài không thể không mang theo kiếm. Nếu không mang theo kiếm thì sẽ giống như phụ nữ để tóc tai rối bời đi ra ngoài đường, cũng giống như không mang giày mà đi dự yến tiệc vậy, điều này không hợp với lễ tiết.

Vậy nên, Quý Trát quyết định sẽ tặng bảo kiếm cho vua nước Từ khi trở về nước. Nhưng ông chỉ thầm hứa trong tâm chứ không hề nói ra miệng. Một năm sau, Quý Trát trở lại nước Từ thì vua nước Từ đã qua đời. Tuy vậy, ông vẫn mang bảo kiếm tặng cho vua nước Từ. Sau đó, ông đem thanh bảo kiếm treo lên ngọn cây trước mộ phần của vua nước Từ, rồi từ biệt rời đi.

Quý Trát nói: “Lần trước lúc ta đi qua nước Từ, nhìn sắc mặt của vua nước Từ thì biết được ngài ấy rất thích thanh kiếm này. Tuy nhiên, ta phải đi sứ sang nước Lỗ nên không tiện mang kiếm tặng cho ngài ấy. Dù vậy nhưng trong nội tâm ta đã tặng nó cho ngài, nên không thể chỉ vì ngài mất rồi mà ta lại không thực hiện lời hứa trước đây.”

Người xưa cho rằng, thứ chết đi chỉ là thân thể của con người. Khi Quý Trát vừa động chân niệm thì vua nước Từ thực sự đã nhận được bảo kiếm.

Đó gọi là “Nhân tâm sinh nhất niệm, thiên địa tận giai tri”. Trời đất đều thấu tỏ, vua nước Từ ở trong trời đất đương nhiên cũng có thể biết rõ.

Giữ trọn lời hẹn ước trước sau như một suốt ba mươi năm

Trình Doãn Nguyên, tự Hiếu Tư, xuất thân từ một gia đình quyền quý nổi danh vùng Hoài Nam. Phụ thân là Trình Huân Trứ, một thương nhân mua bán quả đậu mặn ở Hoài Nam. Tuy nhiên, việc làm ăn buôn bán suy bại nên ông đành bỏ nghề và lên kinh đô Bắc Bình đi học (thời nay gọi là Bắc Kinh).

Lúc bấy giờ có một người tên là Lưu Đăng Dung – người huyện Bình Cốc, Bắc Bình, lên kinh nhậm chức Bộ tào. Trình Huân Trứ và Lưu Đăng Dung tình cờ gặp nhau ở quán trọ, cùng nhau đàm đạo vô cùng hào hứng. Hai bên nói chuyện con cái, rồi định hôn ước kết thân hai nhà khi chúng trưởng thành. Bấy giờ Lưu tiểu thư và Trình công tử đều còn nhỏ tuổi.

Về sau, Lưu Đăng Dung nhậm chức Thái thú Bộ Châu tại Hà Đông. Hơn sáu mươi tuổi mà ông vẫn chưa có con trai, trong phủ chỉ có vợ già cùng con gái nhỏ và một vài người hầu kẻ hạ. Không lâu sau thì vợ ông qua đời, ông quá thương xót đau khổ nên cũng ngã bệnh.

Trước khi lâm chung, ông nói với con gái: “Trình Doãn Nguyên ở Hoài Nam là chồng của con. Phụ mẫu hai bên đã định hôn ước cho các con, con hãy ghi nhớ đừng quên nhé!”

Sau khi ông chết, Lưu tiểu thư mai táng phụ thân xong thì quay về nhà.

Trình Huân Trứ cũng qua đời vài năm sau khi Lưu Đăng Dung nhậm chức Thái thú. Trình Doãn Nguyên dự định sẽ đến Sơn Tây sau khi mãn tang phụ thân. Anh nghe nói nhạc phụ lâm bệnh nên liền đến Bình Cốc để thăm nom.

Người họ hàng ở đó nói với anh: “Sau khi mai táng phụ thân xong, không ai biết Lưu tiểu thư đã đi đâu. Chỉ còn lại ngôi nhà cũ và cửa nhà vẫn đóng kín cho đến nay.”

Trình công tử một thân một mình khốn đốn lạc lõng trên đường xa vạn dặm, lộ phí mang theo đã dùng hết, anh cũng chưa biết làm thế nào. Đúng vào lúc khó khăn, một người qua đường hào phóng đã giúp anh lộ phí hành trang để anh quay trở về phương nam.

Lưu Đăng Dung là một vị quan thanh liêm chính trực, cho đến hết đời cuộc sống cũng không hề dư dả. Lưu tiểu thư giúp người ta may vá, thêu thùa kiếm sống qua ngày. Những người hàng xóm quen biết đều thấy cô hiền thục, nhu mì nên người người thay nhau đến cầu hôn cô. Mỗi lần như vậy, Lưu tiểu thư đều nói thật lòng với họ rằng mình đã có vị hôn phu rồi, nhưng không ai tin cô.

Cô mẫu của Lưu tiểu thư xuất gia làm ni cô ở am Tiếp Dẫn tại Tân Môn. Lưu tiểu thư vì tránh chuyện mai mối đành phải lén đến am ở cùng cô mẫu. Cô mẫu khuyên cô xuống tóc đi tu.

Lưu tiểu thư nói: “Thân thể đầu tóc là vật nhận từ phụ mẫu, con sao có thể dám làm tổn hại? Hơn nữa phụ thân lúc lâm chung đã dặn đi dặn lại con về hôn ước đã định với Trình công tử, phận làm con sao dám không vâng lời cha? Vậy nên con không còn cách nào khác, đành đến ở với cô mẫu để tránh lời ra tiếng vào của người ta. Cô mẫu bảo con xuống tóc đi tu, việc này con đây không dám vâng theo.”

Cứ như thế, Lưu tiểu thư đến ở căn phòng bí mật trong am, không ai có thể trông thấy cô. Mỗi ngày sáng tối, cô đều âm thầm cầu nguyện để có thể gặp Trình công tử dù chỉ một lần trong đời thì có chết cũng không hối tiếc.

Từ sau khi Trình Hiếu Tư trở về nhà, mỗi ngày anh đều khốn đốn với việc mưu sinh. Cũng có người khuyên anh kết hôn với người khác để có người cùng chung sức đỡ đần.

Hiếu Tư tâm tình nặng nề, buồn rầu đáp lại: “Lưu tiểu thư sống hay chết ta còn chưa biết rõ. Nếu muội ấy chết rồi thì duyên nợ giữa đôi ta xem như là kết thúc. Lỡ như muội ấy còn sống, vẫn luôn vì ta mà giữ gìn trinh tiết, vẫn chưa xuất giá thì trong lúc còn chưa biết rõ thực hư thế này, ta tuyệt đối không thể bỏ mặc muội ấy mà không lo.”

Trình Hiếu Tư sống độc thân như thế khoảng ba mươi năm. Lúc Trình Hiếu Tư đã gần năm mươi tuổi, cơm canh đạm bạc vẫn chưa thỏa lòng. Về sau, ông làm việc giảng dạy trên thuyền. Năm này qua năm khác, ông thường xuyên đi lại giữa phương Bắc và phương Nam.

Tháng tư năm Đinh Dậu (1777 SCN), dưới thời trị vì của Hoàng đế Càn Long, thuyền của ông cập bến ở Tân Môn. Trình Hiếu Tư cùng các thuyền viên lên bờ thưởng thức trà. Tình cờ có người đàm luận về chuyện của Lưu tiểu thư, Trình Hiếu Tư lắng nghe cẩn thận. Cuối cùng, ông đã biết được tin tức của Lưu tiểu thư. Ngay lập tức, ông đến am Tiếp Dẫn để gặp mặt.

Cô mẫu kể lại tường tận sự tình cho Trình Hiếu Tư nghe, và cũng kể lại tình huống của Trình công tử cho Lưu tiểu thư nghe.

Lưu tiểu thư nói: “Đào và mai quý ở chỗ quả chín được hái đúng thời đúng lúc. Con giờ đã già rồi. Nếu con đồng ý kết hôn cùng huynh ấy để hoàn tất hôn ước thì người khác nghe được ắt sẽ cười chê, con sẽ trở nên kỳ lạ trong mắt họ. Con vô cùng cảm tạ lòng thành của Trình quân, chỉ là duyên phận chúng con bèo bọt, con còn lời nào có thể nói chăng?”

Trình Hiếu Tư nhiều lần thành tâm mong Lưu tiểu thư xem xét lại nhưng Lưu tiểu thư đều từ chối.

Trình Hiếu Tư không còn cách nào khác, đành đến huyện nha thổ lộ nỗi buồn với huyện lệnh Kim Chi Trung. Huyện lệnh Kim là một vị quan lương thiện toàn tâm vì dân. Sau khi nghe xong câu chuyện, ông lập tức tìm đến am Tiếp Dẫn thuyết phục Lưu tiểu thư kết hôn với Trình Hiếu Tư. Ngày hôm sau, huyện lệnh Kim đã đưa được Lưu tiểu thư về phủ cùng Trình Hiếu Tư kết thành phu thê.

Trình công tử là một người chồng rộng lượng, luôn giữ đạo nghĩa và không bao giờ làm những điều sai trái. Lưu tiểu thư là một người vợ mẫu mực, giữ gìn trinh tiết, không vì được mất mà ôm oán hận. Tuy cả hai vợ chồng đều đã năm mươi bảy tuổi nhưng lại trông trẻ hơn tuổi, tóc vẫn đen và răng vẫn khỏe. Người nào không biết đều cho rằng họ chỉ chừng bốn mươi tuổi.

Từ xưa đến nay người thuỷ chung, nhân nghĩa đã hiếm, có thể như hai vợ chồng Trình Lưu lại càng là chuyện chưa từng có. Phu thê cách mặt vạn dặm, chưa từng gặp gỡ, không rõ tin tức về nhau, cũng không biết rõ sống chết thế nào nhưng mỗi người họ đều hạ quyết tâm giữ gìn trinh tiết, đạo nghĩa trải qua ba mươi năm vẫn như thuở ban đầu.

Cuối cùng, trời cao không phụ lòng người lương thiện. Với ý chí kiên cường không gì lay chuyển được, trời cao đã tác hợp hôn ước cho họ sau bao nhiêu năm lưu lạc khốn khổ, trôi nổi khắp nơi.

Về sau, huyện lệnh Kim Chi Trung không chỉ giúp họ nên vợ nên chồng mà còn tuyên dương và khen thưởng câu chuyện của họ. Huyện lệnh lo lắng đôi vợ chồng chung thủy, nhân nghĩa không có lộ phí về quê và công việc mưu sinh nên ông lấy bổng lộc của mình đưa cho họ, ngoài ra ông còn đề nghị những thương nhân bán quả đậu muối trước kia cùng giúp đỡ họ làm ăn. Số người đến tương trợ ngày càng nhiều hơn, mọi người hào phóng giúp đỡ không quản bạc tiền vật chất. Cứ như thế, hai vợ chồng đã mua được thuyền để trở về phương nam, an cư lạc nghiệp, sống những tháng ngày cần kiệm mộc mạc.

Theo lời những thương lái từ Hoài Nam thì sau khi Hiếu Tư về quê, họ sinh liền hai người con trai. Lưu tiểu thư đã sáu mươi tuổi nhưng vẫn có mang, quả thực là điều chưa có tiền lệ. Thật là trời cao có mắt, ban thưởng cho những người lương thiện, bảo hộ không để họ chịu tổn thất dẫu chỉ một chút. Mong sao câu chuyện này có thể cảnh tỉnh thế nhân giữ trọn lời hẹn ước!

Sau khi xem qua những câu chuyện này, có thể bạn không đồng ý với việc các nhân vật chính trong chuyện giữ trọn lời hứa suốt nửa đời người, sẽ cho rằng họ quá ngốc nghếch. Tuy nhiên, người Trung Quốc thời xưa xem trọng thành tín, một lời hứa đáng giá nghìn vàng, thực sự đáng để người khác phải suy ngẫm. Dù cho trải qua khổ nạn, nhưng hạnh phúc cuối cùng có được nhất định là trường cửu dài lâu, được Thần linh bảo hộ và người đời ca ngợi. Phó xuất cực khổ trước đó cũng sẽ nhận hồi báo tốt đẹp nhất.

Người Trung Quốc ngày nay quả thực là không sao hiểu và có thể tưởng tượng ra được cách hành xử như vậy. Sống dưới chế độ bị nhồi nhét vô thần luận, con người càng xem trọng hưởng thụ trước mắt và hạnh phúc ngắn ngủi. Con người truy cầu hưởng lạc nhất thời, thậm chí là những kích thích cảm quan, nhưng thường lưu lại một khoảng trống trong nội tâm. Trong cuộc sống họ thường phải chịu đủ nỗi thống khổ và bất hạnh. Thống khổ trên thân thể, thiếu thốn về kinh tế, khổ não trong mối quan hệ giữa người với người, thống khổ về tinh thần, không thể nào khoả lấp được dục vọng. Có lẽ điều con người không thể nghĩ đến là: Đi ngược với Nhân lễ nghĩa trí tín và chuẩn tắc hành vi Thần quy định cho con người thì mới mang đến lại đủ loại khổ nạn. Nhìn lại đôi vợ chồng Trình Lưu giữ trọn lời hứa, đổi lại nửa đời sau vui vẻ hạnh phúc, chẳng phải khiến người đời ngưỡng mộ khôn nguôi hay sao?

Minh Hue Net

Hits: 15

Bài nên xem:

Khi bạn hiểu sai về Pháp Luân Công, thì sẽ dẫn đến việc gì?

Đơn giản là - hiểu sai thì sẽ có ứng xử hành động sai, ứng xử hành động sai thì kết quả không tốt cho mình [và kể cả người thân], vì người ta nghĩ gì làm gì thì đều sẽ phát sinh một kết quả về sau, đó là quy luật. Cụ thể việc này ra sao? Các bạn đọc ở vế sau bài viết, chúng tôi cần nói một chút về bối cảnh và đầu đuôi sự việc các bạn mới có thể hiểu hết.

Học viên Pháp Luân Công Việt Nam luyện công (Nguồn ảnh: Internet)

Có một điều mà rất nhiều người vướng phải, ấy là cho rằng Pháp Luân Công là tà đạo, làm chính trị. “Chẳng đúng thế sao, đài báo ti vi, trên mạng trên facebook họ nói đầy đấy thôi, đài báo nhà nước cũng nói đấy thôi”. Bạn nói thể chẳng phải rất ư là định kiến theo số đông và bất công sao? Chúng ta ai cũng nói câu tôi nghe gì cũng là “nghe bằng hai tai” hoặc “không biết thì cũng không nên nghe này kia mà nói lung tung”, nhưng bạn đang dùng hai tai mà nghe mà tin cùng một luồng thông tin nói xấu, trang web và sách của Pháp Luân Công công khai trên mạng, muốn biết tốt xấu thì xem trực tiếp nghe trực tiếp những gì họ học họ làm thì sẽ rõ hết chứ đâu cần nghe qua ai. Là “tà đạo” thì giáo lý việc làm của nó nhất định phải liên quan đến điều ÁC. Là “làm chính trị” thì nó nhất định phải tranh quyền tranh chức hay cái ghế của ai đó, hay là liên quan đảng phái đấu đá,vv… Pháp Luân Công không có những điều này, bạn có thể kiểm chứng bằng việc tìm hiểu những điều họ học tại trang web chính thống của Pháp Luân Công [https://vi.falundafa.org/] có chữ nào là dạy làm ác, có chữ nào là kêu đi làm chính trị đảng phái. Đôi khi chúng ta sống một đời cùng vợ chồng, cha mẹ, thân thiết như vậy nhưng cũng không hiểu hết họ, huống hồ một tình huống mà chúng ta ở ngoài  và nghe qua như Pháp Luân Công.

Nhưng đài báo ti vi nhà nước cũng nói như vậy” - đài báo ti vi nhà nước cũng rất nhiều kênh, có kênh nói có kênh không, đài báo ti vi cũng là người có hiểu đúng và hiểu sai, có người đưa tin sự thật và có người đưa tin theo “ý đồ” của cá nhân người viết, việc ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công đã cách đây 23 năm [1999], bây giờ họ viết bài cũng chỉ dựa vào tài liệu lượm lặt trên mạng hoặc bên nhà nước TQ đưa qua, đây chẳng khác nào là “lấy “sự thật” được nói ra từ miệng tên giết người cưỡng bức rồi về đưa tin về vụ án mà nó gây ra”, và sự thật mà tên giết người đó nói là nó có lý do hợp lý để giết người và cưỡng bức - trớ trêu thay đây là chỗ mà nhiều người tin theo.

Quay ngược thời gian nói về việc này, HitsLe khi diệt chủng  6 triệu người Do Thái hắn ta cũng làm công tác tuyên truyền, nhiều người dân Đức lúc bấy giờ cũng ủng hộ và đồng quan điểm với nó, nghe nói hắn cũng cho rằng người Do Thái muốn lật đổ và “làm chính trị”. Cho đến hôm nay nhân loại nhìn nhận hắn là kẻ diệt chủng tàn ác và là điển hình của tội ác với nhân loại.

Thời Kmer đỏ thổng trị Campuchia đã gây ra cái chết của ước chừng khoảng 1,4 triệu đến 2,2 triệu người, mà lúc đó tổng số dân của Campuchia chỉ khoảng hơn 7 triệu người, nó đương nhiên cho đài báo tuyên truyền rằng những người bị giết là thành phần "phản đảng, làm chính trị, phản cách mạng" (Khmer đỏ cũng là ĐCS và được Trung Cộng tiếp tay), một kiểu đại loại như thế. Nhân dân Campuchia thời đó cũng nhiều người đồng quan điểm và tin theo tuyên truyền của Pol Pot. Và giờ đây cả thế giới đã phán xử, nhân loại cũng biết về tội ác diệt chủng của nó.

ĐCSTQ đàn áp gia đình học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc (Nguồn ảnh: Chánh Kiến Net)

So sánh về mức độ tàn ác thì ĐCSTQ còn nhỉnh hơn HitLe và PolPot, lý do gì khiến bạn tin vào vu khống của nó về Pháp Luân Công rồi cho rằng Pháp Luân Công là “tà đạo, làm chính trị,vv…” trong khi cha ông của người Việt nhiều người đã chết nơi biển đảo hay biên giới vì đạn dược của Trung Cộng,  rất có thể sẽ rơi vào tình huống của người dân thế giới thời bấy giờ tin và nghe theo tuyên truyền của HitLe hay PolPot trước khi tội ác của nó chưa bị phơi bày.

Lại nói tôi tin vào đài báo của nhà nước Việt Nam chứ chẳng tin vào đài báo ĐCSTQ, đúng rồi, nhiều đài báo láng giềng của Đức cũng đưa tin theo tuyên truyền của HitLe và người dân láng giềng thì tin vào tuyên truyền của nhà nước họ, gián tiếp tin theo thôi.

Dẫn ra các ví dụ trên để nói về cách chúng ta tiếp nhận thông tin đài báo, phải chăng chúng ta có lần đã tự lừa mình theo cách trên khi phán đoán nhận định về một ai đó?

Hiểu về Pháp Luân Công thế nào cho đúng? 

Pháp Luân Công là một môn tu thuộc trường phái Phật, chiểu theo nguyên lý Chân Thiện Nhẫn để tu tâm và hành xử hàng ngày, kèm thêm 5 bài tập nhẹ nhàng giúp nâng cao sức khỏe. Người tu luyện Pháp Luân Công đa phần đạt được lợi ích to lớn về đạo đức và sức khỏe, điều này tạo thành sức hút mạnh mẽ khi vào 1999 đã có 100 triệu người Trung Quốc theo học (1/10 dân số TQ lúc bấy giờ).

Cảnh luyện công của các học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc trước 20 tháng 7 năm 1999 (Ngồn ảnh: Minh Huệ Net)

Việc Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công chủ yếu là vì sự ganh tỵ: 100 triệu là lớn hơn số đảng viên ĐCSTQ thời bấy giờ [70 triệu], nó không chịu được việc có một đoàn thể nào lớn hơn nó. Nó cũng không chịu được khi sách của Pháp Luân Công (cuốn Chuyển Pháp Luân) thì người dân TQ người người tìm đọc, chuyền tay nhau đọc trong khi sách của nó (các sách về đảng) thì phải cưỡng chế nhồi nhét vào đầu người dân. Nó không chịu được vì người học Pháp Luân Công tin Thần kính Phật trong khi nó muốn lòng kính trọng Thần của người dân không được lớn hơn việc tôn thờ nó, nó muốn người dân coi đảng là nhất. Nó ganh tỵ vì người tập Pháp Luân Công lúc đó rất nhiều người tự nguyện làm việc tốt trong khi đảng viên của nó thì thỉnh thoảng mới có một tấm gương người tốt điển hình. Nó [Giang Trạch Dân - tổng bí thư ĐCSTQ lúc bấy giờ] không chịu được việc vợ, cũng như cấp dưới của nó hết lời ca ngợi đức độ của vị Sư phụ Pháp Luân Công, không chịu được việc người dân TQ kính trọng vị thầy của Pháp Luân Công từ tấm lòng trong khi nó là một lãnh tụ lại không có được điều này.

Tất cả điều trên khiến Giang Trạch Dân và ĐCSTQ phát động đàn áp Pháp Luân Công. Có người không thể nào tin được việc một lãnh tụ cấp cao lại đem lòng ganh tỵ và nghe phi lý, chủ yếu là vì họ vốn quan niệm rằng cấp cao là có đạo đức tư cách tốt, trong khi lịch sử nhân loại cho thấy ngay rất nhiều bậc vua chúa gọi là “hôn quân vô đạo”, lãnh đạo cấp cao nhưng nó cũng là người  không phải Thần Phật, là người mà ở vị trí nào mà không giữ được đạo đức thì cũng hành xử tệ thôi, chẳng phải thời hiện nay chúng ta đã chứng kiến rất nhiều tham quan ghế to chức to cũng làm điều xằng bậy đấy sao, núi thì to nhưng không phải không có rắn độc. Việc Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công đã có nhiều quốc gia lên án và truy tố về tội ác này.

Thế giới lên án tội ác của Giang Trạch Dân. Ông ta sẽ bị trừng phạt vì đã đã tiến hành bức hại Pháp Luân Công (Nguồn ảnh: Tinh Hoa)

Khi bạn hiểu sai về Pháp Luân Công, thì sẽ dẫn đến việc gì? Hiểu sai thì sẽ phát sinh ác cảm hoặc thù ghét phỉ báng, hoặc tham gia trực tiếp vào việc phá họ. Nhưng Pháp Luân Công là Phật Pháp, ác cảm hay thù ghét phỉ báng họ cũng chính là đang ác cảm thù ghét phỉ báng đối với Phật Pháp, ứng xử với Phật Pháp cũng tương đương với đang ứng xử với vị Thần vị Phật hoặc đệ tử của họ. Người có đức tin vào Thần Phật ai cũng biết rằng, khi một người thù ghét, xúc phạm, phỉ báng Thần Phật, Phật Pháp [dù chỉ là ý nghĩ trong tâm] thì sẽ tạo thành tội nghiệp to lớn và chịu báo ứng bi thảm vì tội nghiệp này. Có một điều dễ khiến người sai lầm ấy chính là họ không tin vào báo ứng và cho rằng chuyện viển vông mê tín, nói rằng tôi chả thấy ai bị báo ứng cả. Vì sự thật chẳng báo chí hay nhà nước nào đi thống kê “nhân quả báo ứng cả”, và đương sự bị báo ứng lúc đó họ chẳng thể đội mồ dậy nói cho chúng ta nghe, những chuyện nghe được từ dân gian hay người truyền lại thì lại cho là mê tín viển vông. Người Việt nói: “có kiêng có lành”, kính trọng Thần Phật hay tín ngưỡng chân chính thì chẳng mất gì cả, đương nhiên lành mà không có hại, còn việc xúc phạm một tín ngưỡng hoặc đoàn thể tín ngưỡng khác chỉ vì những điều của họ khác với nhận thức của bạn lại là việc rất không nên, có hại, bởi vì họ không tổn gì bạn cả. Nếu mà vô tri hùa theo đám ông mà ứng xử sai với những điều liên quan đến Thần Phật, Phật Pháp, hay cá nhân đoàn thể tín ngưỡng thì lại càng không nên.

Chúng tôi vừa nói cho bạn biết sự thật về Pháp Luân Công và lý do vì sao bạn cần hiểu đúng về nó, mục đích không phải vì để bạn học Pháp Luân Công, mà vì đây là Phật Pháp. Chúng ta không nên thù hận Phật Pháp, nếu không sẽ mang tai họa đến cho bản thân. Và khi nói về tội ác ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công, thì đương nhiên cần chỉ đích danh kẻ gây tội ác là ai. Chỉ đích danh ĐCSTQ thì phải có chữ “đảng”, có chữ “đảng” trong trường hợp này nào có liên quan gì đến chính trị. Đây cũng chính là điểm mà nhiều người vin vào để nói rằng Pháp Luân Công làm chính trị, chỉ vì có nhắc đến một chữ “đảng”.

Hiểu được rằng Pháp Luân Đại Pháp - Chân Thiện Nhẫn là tốt thì sẽ có được phúc báo và bình an - may mắn (Nguồn ảnh: Pinterest)

Khi bạn hiểu đúng, bạn sẽ không thù ghét ác cảm với Pháp Luân Công, không phỉ báng Phật Pháp, không hùa theo tuyên truyền vu khống của Trung Cộng, sẽ không phải chịu những gì liên quan đến báo ứng đối với việc này. Hàng trăm triệu học viên Pháp Luân Công thường nói điều này, không hùa theo Trung Cộng trong tội ác mà nó làm đối với Pháp Luân Công thì sẽ không bị họa lây khi trời diệt nó. Hiểu được rằng Pháp Luân Đại Pháp - Chân Thiện Nhẫn là tốt thì sẽ có được phúc báo và bình an - may mắn. Chúng tôi chính mong muốn điều này cho bạn và người thân của bạn! Công đạo trong lòng tự bạn soi xét có thể hiểu được!

Tác giả: Pháp đồ

Nếu quý độc giả có câu chuyện hay, bức ảnh đẹp, lời thơ sâu lắng... có ý nguyện cùng chúng tôi gìn giữ những giá trị đạo đức truyền thống. Xin vui lòng gửi về hòm thư: admin@quayvetruyenthong.org

Có thể bạn quan tâm:

BÀI VIẾT XEM NHIỀU